Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm khi Mỹ liệt thêm các công ty khởi nghiệp của Trung Quốc vào “danh sách đen” về thương mại làm giảm hy vọng về khả năng hai nước có thể sớm đạt một thỏa thuận thương mại.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 0,2% xuống 58,24 USD/thùng, trong khi đó dầu WTI cũng mất 0,2% xuống 52,63 USD/thùng.
Nhà phân tích dầu mỏ Giovanni Staunovo thuộc UBS cho biết, sự chú ý của thị trường vẫn tập trung vào các căng thẳng thương mại cũng như những quan ngại về triển vọng nhu cầu đối với “vàng đen”, đồng thời "phớt lờ" những căng thẳng địa chính trị “leo thang” tại Trung Đông và sản lượng dầu thấp hơn trong tháng 9/2019 của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
Các nhà đầu tư hiện giữ tâm lý thận trọng trước thềm vòng đàm phán cấp cao về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc, dự kiến diễn ra vào ngày 10/10 tại Mỹ. Theo nguồn tin từ Bloomberg, Washington đang thảo luận về khả năng hạn chế các dòng vốn chảy vào Trung Quốc, mà trọng tâm là các dòng đầu tư từ các quỹ hưu trí của Chính phủ Mỹ. Tuy nhiên, một số nguồn tin khác cho biết Mỹ phủ nhận thông tin này.
Viện Xăng dầu Mỹ (API) công bố dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 4,1 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 4/10, cao hơn nhiều so với mức tăng dự đoán 1,4 triệu thùng các nhà phân tích đưa ra trước đó.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) mới đây đã hạ mức dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2020 đi 100.000 thùng/ngày, xuống 1,3 triệu thùng/ngày.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm phiên thứ 3 liên tiếp do USD mạnh lên. Cuối phiên, vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.499,67 USD/ounce, sau khi có lúc tăng 1% lên 1.506,31 USD/ounce vào đầu phiên giao dịch; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 không thay đổi ở mức 1.503,9 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt, đã tăng 0,21% lên 99,18. Giá vàng thường di chuyển ngược chiều với đồng USD.
Michael McCarthy, nhà chiến lược thị trường hàng đầu của CMC Markets, cho biết một trong những yếu tố đang gây áp lực lên thị trường vàng là triển vọng tăng trưởng toàn cầu và những diễn biến liên quan đến đàm phán thương mại Mỹ-Trung. Hiện nay, các nhà giao dịch đang rất thận trọng và chờ đợi biên bản cuộc họp tháng Chín của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ngoài ra, tiến trình Brexit khó khăn cũng có khả năng chi phối thị trường vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao tháng 12/2019 tăng 16 US cent (0,91%) lên 17,7 USD/ounce, bạch kim giao tháng 1/2020 tăng 1,8 USD (0,2%) lên 890,1 USD/ounce, trong khi palađi tăng 0,8% lên 1.673,25 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do các nhà đầu tư lo ngại các cuộc đàm phán thương mại Mỹ - Trung sẽ có ít tiến triển, song một số thông tin tích cực khác ngăn giá giảm mạnh.
Trên sàn London, giá đồng giao sau 3 tháng giảm 0,8% xuống 5.675,5 USD/tấn, sau khi tăng 1,4% trong phiên trước đó. Đồng thời, giá nickel giao cùng kỳ hạn cũng giảm 3,3% xuống 17.135 USD/tấn, thấp nhất 1 tuần, trong phiên có lúc giảm 0,9% xuống 17.570 USD/tấn. Như vậy, giá nickel giảm 2 phiên liên tiếp sau khi tăng 3,4% trong tuần trước đó.
Trên sàn Thượng Hải, trong phiên giao dịch đầu tiên sau 1 tuần nghỉ lễ, giá thép giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần, do lo ngại triển vọng nhu cầu yếu và dư thừa nguồn cung tại nước sản xuất và tiêu thụ hàng đầu – Trung Quốc.
Giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 2,3% xuống 3.404 CNY (477,9 USD)/tấn, đầu phiên giao dịch giảm 2,4% xuống mức thấp nhất kể từ ngày 23/9/2019; thép cuộn cán nóng giảm 1,8% xuống 3.416 CNY/tấn; thép không gỉ giảm 0,1% xuống 15.675 CNY/tấn.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn trên sàn Đại Liên tăng 0,8% lên 657 CNY/tấn, cao nhất kể từ ngày 18/9/2019. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn Singapore tăng 0,6% lên 89,12 USD/tấn. Thị trường quặng sắt đang được hỗ trợ bởi xuất khẩu quặng sắt của Brazil trong tháng 9/2019 giảm xuống 27,14 triệu tấn so với 28,3 triệu tấn tháng 8/2019 và 33,9 triệu tấn tháng 9/2018. Xuất khẩu quặng sắt vào Trung Quốc từ Port Hedland Australia - cảng quặng sắt lớn nhất thế giới – giảm hơn 5% so với tháng 8/2019 xuống 36,05 triệu tấn trong tháng 9/2019.
Trên thị trường nông sản, giá đường và cà phê giảm, trong khi ngũ cốc đi lên.
Giá đường tiếp tục giảm trong bối cảnh các nhà sản xuất và thương nhân đẩy mạnh bán ra, song mức giảm được hạn chế bởi dự báo sản lượng đường trong niên vụ này sẽ thiếu hụt.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London giảm 0,06 US cent tương đương 0,5% xuống 12,46 US cent/lb, sau khi giảm 1,7% trong phiên trước đó; đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn London tăng 2 USD tương đương 0,6% lên 341,6 USD/tấn.
Xu hướng giá cà phê cũng tương tự, cà phê Arabica kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn New York giảm 1,3 US cent tương đương 1,3% xuống 0,957 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 trên sàn London tăng 6 USD tương đương 0,5% lên 1.259 USD/tấn.
Giá ngô, đậu tương và lúa mì tại Mỹ đồng loạt tăng sau khi các nhà đầu tư đẩy mạnh mua vào. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 5-1/4 US cent lên 9,2-1/2 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 19/7/2019. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 8-3/4 US cent lên 3,95-3/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 12/8/2019. Giá lúa mì mềm, đỏ, vụ đông kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 11 US cent lên 5-1/4 USD/bushel, cao nhất kể từ ngày 11/8/2019.
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng do các thương nhân dự báo tốc độ tăng trưởng sản lượng hàng tháng thấp hơn so với dự kiến trước đó và chờ đợi tín hiệu từ thông báo ngân sách quốc gia của nước này cho năm tới. Dầu cọ kỳ hạn tháng 12/2019 trên sàn Bursa Malaysia tăng 0,7% lên 2.174 ringgit (518,85 USD)/tấn, tăng phiên thứ 3 liên tiếp.
Giá cao su tại Tokyo tăng trở lại sau các cuộc đàm phán và các thương nhân cao su lớn tại Trung Quốc tạm dừng hoạt động trong tháng qua. Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 3/2020 tăng 3,1 JPY (0,029 USD) lên 159 JPY/kg. Trong khi đó, giá cao su TSR20 kỳ hạn tháng 4/2020 không thay đổi ở mức 148,9 JPY/kg. Trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 45 CNY (6,3 USD) xuống 11.430 CNY/tấn. Giá cao su TSR20 giảm 110 CNY xuống 9.680 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

52,63

 

-0,02%

Dầu Brent

USD/thùng

58,24

 

-0,02%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

35.770,00

-540,00

-1,49%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,30

+0,01

+0,35%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

157,76

-0,33

-0,21%

Dầu đốt

US cent/gallon

190,27

-0,74

-0,39%

Dầu khí

USD/tấn

578,50

-0,25

-0,04%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

52.880,00

-410,00

-0,77%

Vàng New York

USD/ounce

1.511,30

-7,40

-0,49%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.174,00

+38,00

+0,74%

Bạc New York

USD/ounce

17,80

+0,10

+0,54%

Bạc TOCOM

JPY/g

60,90

+0,80

+1,33%

Bạch kim

USD/ounce

890,15

+0,13

+0,01%

Palađi

USD/ounce

1.671,90

-3,45

-0,21%

Đồng New York

US cent/lb

257,00

+0,15

+0,06%

Đồng LME

USD/tấn

5.675,50

-46,50

-0,81%

Nhôm LME

USD/tấn

1.751,50

+5,50

+0,32%

Kẽm LME

USD/tấn

2.298,00

+9,00

+0,39%

Thiếc LME

USD/tấn

16.395,00

+65,00

+0,40%

Ngô

US cent/bushel

396,25

+0,50

+0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

500,00

-0,25

-0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

284,75

+0,25

+0,09%

Gạo thô

USD/cwt

11,90

+0,06

+0,51%

Đậu tương

US cent/bushel

920,75

+0,25

+0,03%

Khô đậu tương

USD/tấn

307,20

+0,30

+0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,80

-0,02

-0,07%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

465,30

+0,50

+0,11%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.448,00

+26,00

+1,07%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

95,70

-1,30

-1,34%

Đường thô

US cent/lb

12,46

-0,06

-0,48%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

102,30

-1,15

-1,11%

Bông

US cent/lb

61,12

-0,20

-0,33%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

362,00

-6,70

-1,82%

Cao su TOCOM

JPY/kg

158,10

-0,90

-0,57%

Ethanol CME

USD/gallon

1,44

+0,05

+3,30%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg

Trích: http://vinanet.vn