Theo quy hoạch của ngành điện, nhiệt điện than sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao cho đến năm 2030. Cụ thể, nếu như trong năm 2015-2016 nhiệt điện than chỉ mới chiếm 34% thì đến năm 2020 lên đến 49%, năm 2025 lên 55% và đến năm 2030 dừng lại ở mức 54%, trong khi các nguồn khác như thủy điện, nhiệt điện chạy bằng dầu, khí hóa lỏng không tăng, thậm chí còn giảm. Riêng năng lượng tái tạo và thủy điện nhỏ chỉ tăng ít và dự kiến đến năm 2030 chiếm khoảng 10%. Cũng theo quy hoạch, đến năm 2020 ngành điện phải sử dụng 39 triệu tấn than nội địa, chủ yếu là than Hòn Gai (Quảng Ninh) với chất lượng không cao, song lượng than này không đáp ứng đủ nhu cầu nên dự kiến phải nhập khoảng 25 triệu tấn và tăng lên 85 triệu tấn vào năm 2030.

Những con số nói trên cho thấy, để đáp ứng nhu cầu điện ngày càng gia tăng, Việt Nam đã lựa chọn phương án tối ưu nhất là tăng công suất điện than. Các chuyên gia ngành năng lượng đánh giá, với các nước đang phát triển như Việt Nam, việc phát triển nhiệt điện than vẫn sẽ luôn chiếm ưu thế, đặc biệt là trong bối cảnh thuỷ điện đã phát triển gần hết và các nguồn năng lượng khác khó đáp ứng vì khá đắt đỏ, đơn cử như dự án nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận đã phải huỷ bỏ. Nhiệt điện than vẫn là phương án hợp lý hơn cả do chi phí cho nguồn này thấp. Tuy nhiên, công nghệ nhiệt điện than cho tới thời điểm này vẫn đang là một bài toán khó đối với ngành điện hiện nay. Mặc dù thời gian qua, các nhà máy nhiệt điện đã có những động thái để cải thiện công nghệ nhằm đảm bảo tác động ít đến môi trường, thế nhưng theo con số mà Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đưa ra, trong số 26 dự án đã và đang vận hành vẫn có nhiều nhà máy nhiện điện đang có những vi phạm đến môi trường.
Tại hội thảo, các chuyên gia đã đưa ra khuyến nghị cho phát triển năng lượng bền vững và đảm bảo an ninh năng lượng tại Việt Nam. Hiện nay nhiều nhà máy nhiệt điện than có thông số hơi mới ở mức cận tới hạn, nhiều nhà máy đã hoạt động 40-50 năm nên công nghệ lạc hậu. Nếu như phát triển nhiệt điện than theo Quy hoạch điện VII hiệu chỉnh thì phải áp dụng các công nghệ mới; trong đó phải sử dụng các thông số siêu cao, trên siêu cao để hạn chế tối đa các phát thải độc hại ra môi trường như khí, rắn, nước.
Theo ông Trần Đình Sính, Phó Giám đốc Trung tâm sáng tạo xanh, hiện nay các nhà máy nhiệt điện than ở Việt Nam có công nghệ cận tới hạn, sắp tới nếu chúng ta xây dựng thì phải đầu tư công nghệ tiên tiến hơn, siêu tới hạn hoặc trên siêu tới hạn để giảm phát thải.
Để đảm bảo phát triển năng lượng bền vững, Việt Nam cần hết sức quan tâm đến điều hành, quản lý, phát triển và khai thác hợp lý các nguồn năng lượng. Mục tiêu quy hoạch điện VII vào năm 2020 Việt Nam đạt 265 tỷ kWh, và đến năm 2030 đạt 572 tỷ kWh. Với mức độ tăng trưởng cao, ngoài việc phát triển nhiệt điện than thì cần nâng công suất của các nguồn năng lượng mới và năng lượng tái tạo.
 
Ông Tô Quốc Trụ, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học năng lượng, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng: “Cái chính hiện nay là chúng ta phải làm thế nào để nâng, đưa tỷ lệ năng lượng tái tạo cao lên, điện năng phát ra được cao hơn mới có thể hạn chế được bớt nhiệt điện than...
Ý kiến của các chuyên gia cũng cho rằng, phát triển năng lượng bền vững đang là xu thế chung của toàn cầu. Vì thế cần phải ban hành quy định bắt buộc các nhà đầu tư sử dụng công nghệ tiên tiến, hiệu suất cao và ít phát thải các chất gây ô nhiễm môi trường...
Nguồn: Vũ Vũ/Báo Công Thương điện tử