Phần lớn lợi nhuận của Petrolimex không đến từ xăng dầu

Lãi 9 tháng đạt khoảng 1.400 tỉ đồng nhưng Petrolimex cho biết chỉ có 40% đến từ hoạt động kinh doanh xăng dầu

Báo cáo lên Chính phủ mới đây, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) cho biết 9 tháng đầu năm 2014, Petrolimex đạt doanh thu 155.000 tỉ đồng, tăng 6% so với cùng kỳ. Lợi nhuận 9 tháng ước đạt 1.400 tỉ đồng, trong đó, chỉ 40% đến từ kinh doanh xăng dầu, còn lại là từ kinh doanh ngành khác.

Petrolimex cho biết chỉ khoảng 40% lợi nhuận của tập đoàn đến từ việc kinh doanh xăng dầu. Ảnh minh họa
Petrolimex cho biết chỉ khoảng 40% lợi nhuận của tập đoàn đến từ việc kinh doanh xăng dầu. 

Trong 9 tháng, tập đoàn đã nộp ngân sách 27.200 tỉ đồng, tăng 116% so với cùng kỳ năm trước. Tổng sản lượng nhập mua của tập đoàn là 5,8 triệu m3-tấn, bằng 103% sản lượng cùng kỳ. Tiêu thụ 7,2 triệu tấn, bằng 104% cùng kỳ.

Đáng lưu ý, sản lượng tiêu thụ xăng dầu nội địa sụt giảm, chỉ bằng 98% cùng kỳ. Thị phần gia tăng chủ yếu ở thị trường Lào, Campuchia...

Ở khu vực bán lẻ, sản lượng tăng khoảng 6% nhưng bán buôn lại giảm, đặc biệt ở khối kinh doanh đại lý giảm sản lượng khoảng 15%.

Báo cáo cũng cho biết đến hết năm 2013, tập đoàn đã hoàn chỉnh công tác quyết toán cổ phần hóa, bù thiếu hụt vốn nhà nước 1.300 tỉ đồng. Dự kiến, 2014 sẽ tiếp tục hoàn thiện bù thiếu hụt vốn.

(ST)

 

Dịch vụ mập mờ, 3G bẫy người dùng?

Những chiếc “bẫy” được giăng khắp nơi và chỉ cần lơ đãng, người dùng dịch vụ 3G của các nhà mạng sẽ bị trừ tiền vô tội vạ trong tài khoản.

Kích hoạt dịch vụ mập mờ, trừ cước vô tội vạ, giải thích không thỏa đáng là bức xúc phổ biến nhất của những người đang sử dụng dịch vụ điện thoại di động.

 

Anh B.Q.T, chủ thuê bao di động mạng Viettel 0965770xxx, phản ảnh: “Tháng trước Viettel có chương trình khuyến mãi gói Mimax 15.000 đồng/tháng, mình thấy rẻ nên đã đăng ký dùng. Nhưng sau đó, nhà mạng này không hề thông báo đã tự động gia hạn gói Mimax 70.000 đồng. Chỉ đến khi bị trừ tiền mình mới biết…". 

Giải thích trường hợp này, đại diện mạng Viettel cho rằng chương trình khuyến mãi đăng ký Mimax 15.000 đồng/tháng từ ngày 8.8 - 30.9.2014. Nếu chưa hủy dịch vụ thì sang tháng sau hệ thống tính cước như bình thường. Tuy nhiên, anh B.Q.T nói: “Tôi không hề nhận được tin nhắn từ tổng đài Viettel về việc sẽ gia hạn gói cước này mà tự động điều chỉnh thành 70.000 đồng/tháng. Nhà mạng không thông báo thì ai biết mà hủy?”.

 

 

 

Minh họa: DAD

Tháo sim vẫn bị trừ tiền

Khách hàng Bùi Quang Hải (ngụ tại Thái Nguyên) kể: “Mình đăng ký sim Viettel trả sau gọi 1.500 phút nội mạng miễn phí, toàn bộ cước trọn gói trong tháng là 200.000 đồng. Mọi tháng mình không chú ý, nhà mạng bảo thanh toán bao nhiêu thì thanh toán bấy nhiêu. Tháng rồi mình nghi ngờ kiểm tra lại thì ôi thôi, tự dưng đâu lòi ra 40.000 đồng cước nhắn tin và cước thuê bao tháng 45.000 đồng trong khi vẫn có cả 200.000 đồng kia nữa. Gọi điện tới trung tâm thì nhân viên tổng đài bảo không có đủ thẩm quyền để kiểm tra, bảo mình ra trung tâm. Mình là công nhân đi làm cả ngày thời gian đâu chạy đến trung tâm để hỏi?”.

Với mức giá công bố của các nhà mạng là 1,5 đồng/Kb, mỗi Mb sử dụng là 1.536 đồng (1 Mb = 1.024 Kb). Nếu dùng khoảng 500 Mb (tương đương với gói thuê bao tháng) thì hết gần 800.000 đồng, cao gấp 5 lần so với giá cước 3G trong khu vực

Một cái “bẫy” mà rất nhiều người bị "sập" là các nhà mạng luôn thực hiện gia hạn gói cước thuê bao, tạo thói quen cho khách hàng rằng khi hết thời hạn, gói cước sẽ tự động được gia hạn. Nhưng đến một ngày "đẹp trời" bất kỳ, nhà mạng "bỗng dưng" gửi tin nhắn yêu cầu thực hiện lại thủ tục thuê bao. Có khách không để ý, có khách nhầm tưởng tin nhắn rác bỏ qua luôn là bị trừ tiền chí mạng. 

Chị N.H, chủ thuê bao 0918148xxxx mạng Vinaphone, kể: “Tôi đăng ký gói cước 3G Max của Vinaphone, hằng tháng nhà mạng vẫn tự gia hạn nhưng tháng vừa rồi tự dưng yêu cầu thực hiện lại thủ tục thuê bao. Sợ tin nhắn rác, nếu trả lời lại bị trừ mất 15.000 - 20.000 đồng nên tôi bỏ qua. Đến khi nạp thêm 200.000 đồng và bị trừ hết chỉ trong vòng 5 ngày thì tôi mới ngã ngửa. Mà không hiểu nhà mạng trừ cái gì vì ở nhà, ở cơ quan tôi đều sử dụng wifi chứ đâu có sử dụng 3G, sao trừ tiền nhanh vậy?”.

Chị H., chủ thuê bao số 0913400xxx, cho biết: “Mình đã thử kiểm tra bằng cách đăng ký dịch vụ 3G của Vinaphone rồi tháo sim ra, cất vào ví, sau đó mỗi ngày lấy ra kiểm tra tài khoản thì thấy rõ ràng không sử dụng nhưng vẫn bị trừ tiền”. 

Tình trạng trừ tiền vô tội vạ đối với gói cước D1 cũng được khá nhiều trường hợp chia sẻ trên các diễn đàn về mạng di động. Đ.V.K, một khách hàng ở Bến Tre, phản ảnh: “Mình đang dùng gói cước siêu tiết kiệm D1 của Vinaphone (đăng ký 5.000 đồng để xài internet 1 Gb/ngày). Đủ 6 lần, mỗi lần nạp 10.000 đồng đăng ký, thừa tiền để đăng ký lần sau nhưng không hiểu sao mỗi lần xài là mỗi lần bị trừ còn 1.000 đồng. 4 lần đầu nghĩ là do mình để lố lưu lượng nhưng 2 lần sau mình cố tình xài khoảng 300 Mb rồi tắt nguồn điện thoại nhưng vẫn bị trừ tiền. Nhà mạng ăn gian trắng trợn quá”.

Kiếm ngàn tỉ

Theo giải thích của các nhà mạng, giá cước 3G ở VN thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và bán giá chỉ bằng 35 - 68% so với mức giá thành của dịch vụ. Còn theo số liệu do Bộ Thông tin - Truyền thông công bố, giá cước dịch vụ dữ liệu 3G của VN sau khi điều chỉnh trung bình là 111 đồng/Mb, chỉ bằng 34,9% giá cước trung bình của khu vực ASEAN (318 đồng/Mb). 

Tuy nhiên, một chuyên gia kinh tế tại TP.HCM cho rằng đó là sự so sánh khập khiễng vì chính sách phát triển internet, viễn thông, rồi thuế, phí, chi phí khai thác tài nguyên viễn thông, thu nhập trên đầu người khác nhau... nên không thể nói như vậy. Thậm chí, tính đúng - đủ ở nhiều gói cước, VN đang đắt hơn so với khu vực.

Anh Nguyễn Ngọc Thắng, một chuyên gia về tin học - viễn thông ở TP.HCM phân tích: “Đối với các gói cước trọn gói (600 Mb/tháng), sau khi sử dụng hết dung lượng cho phép thì tốc độ đường truyền 3G của cả 3 mạng MobiFone, Vinaphone và Viettel đều giảm xuống 32 Kbps. Đây là tốc độ rất thấp, thua cả đường truyền Dial - up bằng điện thoại bàn trước kia. Với băng thông này thì lướt web cũng đã khó chứ đừng nói đến xem video hay nghe nhạc. 

Còn ở các gói cước có giới hạn, cả 3 nhà mạng đều áp dụng mức cước 25 đồng/50 KB cho những dung lượng bị dùng vượt mức. Tính ra giá cước này hơn 500 đồng/Mb, cao hơn mức bình quân của khu vực ASEAN là 318 đồng/Mb. Đối với trường hợp không đăng ký gói cước mà sử dụng theo dạng xài bao nhiêu tính bấy nhiêu thì giá cước còn cao hơn rất nhiều. Cụ thể, với mức giá công bố của các nhà mạng là 1,5 đồng/Kb, mỗi Mb sử dụng là 1.536 đồng (1 Mb = 1.024 Kb). Nếu dùng khoảng 500 Mb (tương đương với gói thuê bao tháng) thì hết gần 800.000 đồng, cao gấp 5 lần so với giá cước 3G trong khu vực”.

Điều đáng nói, cách tính cước hiện nay của các nhà mạng hết sức nhập nhằng, đánh đố người tiêu  dùng. Ngoài việc giá cước không hợp lý, chất lượng cũng chập chờn thua xa các nước trong khu vực và “đẻ” ra quá nhiều gói cước với giá khác nhau gây “hoa mắt” cho người dùng. Ước tính hiện nay các nhà mạng đều có từ 7 - 10 gói cước với những ký hiệu riêng biệt.

Ông Phạm Tiến Thịnh, một chuyên gia về viễn thông, nhận định: VN không có một cơ quan quản lý thị trường viễn thông độc lập như các nước nên chất lượng 3G cũng như giá thành khó kiểm soát. Từ đó việc bảo vệ quyền lợi cho người dùng cũng chưa thực thi được.

Năm 2013, doanh thu dịch vụ 3G của các nhà mạng ước khoảng 7.200 tỉ đồng. Nếu tính mức tăng giá cước trung bình 20% như dự kiến theo sự cho phép của Bộ Thông tin - Truyền thông, khoản cước tăng có thể giúp các nhà mạng có thêm 1.440 tỉ đồng bỏ túi mỗi năm, chưa kể các khoản tính sai, trừ tiền sai mà người sử dụng không biết hoặc biết mà đành im lặng.

 

Cần có bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng

Hiện nay cả nước đã có gần 20 triệu khách hàng sử dụng 3G nhưng theo Bộ Thông tin - Truyền thông, đến thời điểm này vẫn chưa có bộ tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá chất lượng 3G mặc dù dịch vụ này đã được đưa vào khai thác gần 5 năm. Việc quản lý chất lượng 3G hiện nay chủ yếu theo cam kết của doanh nghiệp về chỉ tiêu chất lượng truyền tải dịch vụ nhưng cũng không có sự thống nhất giữa các nhà cung cấp dịch vụ về các chỉ tiêu này. Do đó, nhiều sự cố và khiếu nại của khách hàng về chất lượng dịch vụ cũng như công tác quản lý của các cơ quan chức năng hầu như không có đủ cơ sở để xử lý.

 (ST)

Bộ trưởng Công Thương nói về chuyện sản xuất con ốc vít

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Vai trò của Nhà nước chỉ mang tính thúc đẩy, còn quyết định có tham gia được công nghiệp hỗ trợ hay không vẫn là phải tự bản thân các doanh nghiệp.

Hiện nay ở tầm quốc gia, mỗi năm chúng ta phải mất hàng chục tỷ USD nhập khẩu các linh, phụ kiện phục vụ các ngành sản xuất, xuất khẩu.

Thứ hai, ở tầm doanh nghiệp, là câu chuyện xôn xao mới đây về việc không doanh nghiệp Việt Nam nào đủ khả năng sản xuất con ốc vít cho Tập đoàn Samsung. Hai câu chuyện này đang đặt ra những lo ngại cho ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước. Các câu hỏi của doanh nghiệp về vấn đề này sẽ là nội dung chính trong Chuyên mục Dân hỏi Bộ trưởng trả lời tuần này với Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng.

PV: Câu hỏi đầu tiên chúng tôi xin chuyển đến Bộ trưởng là chia sẻ của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp này có cho biết: Trong cuộc hội thảo gần đây, chúng tôi là 1 trong 200 doanh nghiệp điện tử của Việt Nam đã phải tiếc nuối khi không đủ khả năng sản xuất được cái ốc vít theo đơn đặt hàng của Samsung. Xin hỏi Bộ Công thương có những định hướng như thế nào để chúng tôi có thể chớp được cơ hội cung cấp các linh phụ kiện cho các doanh nghiệp toàn cầu ở Việt Nam?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Việc sản xuất một linh kiện, phụ tùng ngoài yêu cầu về mặt chất lượng còn nhiều yêu cầu về khía cạnh khác. Cho nên việc chúng ta sản xuất, hay không sản xuất được linh kiện phụ tùng, vấn đề là có tiêu thụ được hay không?

Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng
Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng

Vấn đề ở đây tương tự như câu chuyện của Samsung đã nêu, trên thực tế là chúng ta sản xuất được rồi chất lượng đảm bảo, tuy nhiên, có đưa được sản phẩm vào chuỗi sản xuất của Tập đoàn SamSung không phải chỉ ở Việt Nam, mà trên toàn cầu là câu chuyện khác.

Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam, nhất doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp hỗ trợ ngoài các cơ chế chính sách, Nhà nước cũng cần các chương trình hợp tác với nước ngoài, nhất là những quốc gia có kinh nghiệm như Nhật Bản, Hàn Quốc. Tuy nhiên, vai trò của Nhà nước chỉ mang tính thúc đẩy, còn quyết định có tham gia được công nghiệp hỗ trợ hay không vẫn là phải tự bản thân các doanh nghiệp.

 PV: Còn một doanh nghiệp khác cho biết: Tôi là một doanh nghiệp rất muốn tham gia vào các ngành công nghiệp hỗ trợ vì tôi được biết về rất nhiều chính sách ưu đãi cho ngành này. Nào là gói ưu đãi lãi suất này, quỹ hỗ trợ vốn kia. Nhưng thực tế khi làm thủ tục vay ưu đãi, tôi mới thấy một "biển thủ tục" mà tôi có bơi ra cũng không thể vay được vốn. Tôi được biết là cùng chung số phận như tôi, chưa một doanh nghiệp nào vay được vốn ưu đãi, dù đã 3 năm sau khi chính sách ưu đãi công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ được ban hành. Tôi muốn hỏi Bộ trưởng tại sao các chính ưu đãi này chưa đến được với các doanh nghiệp?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Lý do vì chúng tôi cho rằng những ưu đãi, cơ chế, chính sách hiện có chưa đủ sức hấp dẫn và chưa đủ để các doanh nghiệp quan tâm. Thứ 2 bản thân sức của các doanh nghiệp hỗ trợ còn đang yếu, nếu không có vai trò thúc đẩy, hay sự hỗ trợ trực tiếp từ kinh phí, họ khó mà thực hiện được các chủ trương trong khuyến khích phát triển doanh nghiệp lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. Vì thế Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ ban hành 24/2/2011, mặc dù đã đề cập đến nhiều yếu tố hỗ trợ nhưng trong thực tế việc thực thi vẫn còn nhiều vấn đế.

Hay nói cách khác, những giải pháp trong Quyết định này cần phải xem xét vì sao chưa đủ sức hấp dẫn để sửa đổi ban hành, và sửa đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Công thương phối hợp với các Bộ, ngành địa phương rà soát lại Quyết định 12 và xây dựng thành một Nghị định.

Khi đó, tác động chắc chắn sẽ cao hơn Quyết định, và có điều kiện đề cập, quy định những nội dung mới qua thực tiễn còn bất cập sẽ đưa vào trong Nghị định. Hiện nay, Bộ Công Thương đã lấy ý kiến rộng rãi và tổ chức hội thảo với tinh thần, Chính phủ sẽ tiếp tục ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù cho công nghiệp hỗ trợ, như Chương trình quốc gia doanh nghiệp hỗ trợ, hay hình thành Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp, và những cơ chế ưu đãi hơn về thuế đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực hỗ trợ.

PV: Tiếp theo chúng tôi xin chuyển đến Bộ trưởng câu hỏi của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tôi là một doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực tiêu dùng, gần đây tôi có biết về một thương vụ mua lại chuỗi siêu thị tại Việt Nam của một Tập đoàn bán lẻ Thái Lan. Được biết trước đó, sau khi chính Tập đoàn này mua lại một chuỗi siêu thị Việt khác, đã đưa hàng Thái vào chuỗi này đến 70%. Trong bối cảnh, Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ được thành lập vào đầu năm tới, tôi khá lo ngại vì như thế, làm sao chúng tôi có thể cạnh tranh với hàng Thái khi mà giá vừa rẻ lại có cả hệ thống phân phối để đưa hàng của họ đến với người tiêu dùng của chúng ta. Xin được hỏi Bộ trưởng liệu chúng ta có quy định về tỉ lệ hàng nội địa trong các siêu thị nước ngoài hay không?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Tôi cho rằng, sự quan ngại này cũng có cơ sở. Tuy nhiên, trên thực tế các siêu thị nước ngoài hoạt động tại Việt Nam như Metro, BigC là những tên tuổi lớn lại sử dụng phần lớn hàng hoá, hoặc xuất sứ ở Việt Nam hay ở cửa hàng của họ như Metro là 90%, BigC là tương tự.

Đối với trường hợp doanh nghiệp của Thái nhận chuyển nhượng của Metro, tôi nghĩ rằng, nếu hàng Việt Nam chất lượng tốt, mẫu mã thu hút được người tiêu dùng, giá cả phải chăng, chắc chắn họ sẽ dùng hàng Việt Nam tiêu thụ trong hệ thống của họ.

Rõ ràng, với việc mở cửa thị trường không chỉ các nước có cơ hội đưa hàng vào Việt Nam, ngược lại chúng ta cũng có cơ hội đưa hàng ra nước ngoài, như những mặt hàng có thể mạnh của ta như nông sản, thuỷ sản, dệt may, gia giầy.

Đây là tác dụng của việc mở cửa thị trường và cũng là thực hiện cam kết trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN nếu được thành lập trong 2015, đây chính là quan hệ hai chiều như vậy.

 PV: Một vấn đề khác được một doanh nghiệp chăn nuôi đặt ra là hiện nay chúng ta đang chuẩn bị ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), có nhiều đối tác mạnh về chăn nuôi như Mỹ, Australia, New Zealand. Trước việc ngành chăn nuôi của chúng ta nhỏ lẻ và khó cạnh tranh về giá. Xin hỏi Bộ trưởng có định hướng gì để giúp doanh nghiệp chăn nuôi ứng phó để có thể cạnh tranh được?

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Đối với một số nhóm hàng nhạy cảm mà hiện nay khả năng cạnh tranh còn yếu, năng suất thấp, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta đấu tranh và đạt được trong đàm phán nhiều Hiệp định, kể cả đàm phán Tổ chức thương mại thế giới như bảo lưu một số mặt hàng và có lộ trình từ khi thực hiện Hiệp định đến một thời gian nhất định mới mở cửa hoàn toàn thị trường trong nước cho hàng hoá đó.

Ví dụ khi chúng ta tham gia WTO, chính những mặt hàng trong lĩnh vực nông nghiệp liên quan đến người nông dân, chúng ta đã đấu tranh và đạt kết quả là duy trì được hạn ngạch nhập khẩu cho 4 sản phẩm nông nghiệp như đường, trứng gia cầm, nguyên liệu thuốc lá và muối.

 Nếu như không dùng biện pháp hạn chế, việc sản xuất tiêu thụ 4 mặt hàng này sẽ bị ảnh hưởng. Đây chính là biện pháp trong đàm phán các Hiệp định chúng ta tiếp tục duy trì, đấu tranh yêu cầu đối tác chấp nhận thực tế ở Việt Nam, để những sản phẩm nông sản có lộ trình tương đối dài cho đến khi nào mà lĩnh vực này của chúng ta vương lên, cạnh tranh được chúng ta sẽ mở cửa.

 PV: Chúng tôi xin được chuyển đến Bộ trưởng câu hỏi cuối của một số doanh nghiệp thép. Trong thư gửi về chuyên mục các doanh nghiệp này bày tỏ sự lo ngại khi Việt Nam kí Hiệp định liên minh thuế quan với Nga, Belarus và Kazaktan, hàng loạt doanh nghiệp thép trong nước có thể sẽ phá sản do không thể cạnh tranh. Vậy Bộ đã tính toán mức độ ảnh hưởng của các ngành hàng như thế nào trong quá trình đàm phán Hiệp định liên minh thuế quan này?

 Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: Sản phẩm thép có rất nhiều chủng loại, cho nên trong đàm phán của chúng ta với Liên minh thuế quan, đoàn đàm phán có đưa ra một bản chào hàng, mở cửa cho phía bạn, theo đó, những sản phẩm mà chúng ta sản xuất đủ và thừa. Chẳng hạn như thép xây dựng thông thường, đề nghị bạn không mở cửa hoặc là nếu mở cửa phải có hạn ngạch, thuế suất cao nhưng ngược lại có những sản phẩm thép chúng ta chưa sản xuất được trong thời gian dài tới đây mà lâu nay chúng ta nhập khẩu như thép chế tạo.

Rõ ràng việc chúng ta cho phép các đối tác nước ngoài trong đó có Liên minh thuế quan được xuất khẩu sản phẩm thép này vào Việt Nam là có lợi cho chúng ta, bởi vì thuế thấp, các doanh nghiệp sử dụng thép chế tạo sản xuất ra sản phẩm thép của mình giá cả thấp hơn.

Đây là điều chúng ta phải nói rõ, không dư luật lại hiểu chúng ta mở cửa thị trường thép cho Liên minh thuế quan dẫn đến hàng loạt doanh nghiệp thép gặp khó khăn, cần phải nhìn theo vấn đề và cách đàm phán mà hiện nay chúng tôi đang làm./.

PV: Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!

 (ST)

9 tháng, cả nước nhập gần 44.000 ô tô nguyên chiếc

Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính cung cấp ô tô nguyên chiếc cho Việt Nam với 10,3 nghìn chiếc, tăng 4,3%.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, riêng trong tháng 9/2014, số lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu về Việt Nam đạt khoảng 7.000 chiếc với trị giá 132 triệu USD (mặc dù giá trị nhập khẩu ô tô ước tính giảm nhẹ 3% so với tháng 8, nhưng số lượng lại tăng 22,8%).

Tính chung cả 9 tháng đầu năm 2014, cả nước đã nhập khẩu gần 44.000 ô tô nguyên chiếc, trị giá 938 triệu USD; tăng 74% về lượng và tăng 90,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2013.

Lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu trong 4 tháng trở lại đây liên tiếp đứng ở mức cao (tháng 6 là 5,6 nghìn chiếc, đến tháng 7 là 5,92 nghìn chiếc, tháng 8 là 5,76 nghìn chiếc, tháng 9 khoảng 7.000 chiếc).

Trong 8 tháng đầu năm 2014, cả nước nhập về 37.272 chiếc ô tô các loại, với trị giá là hơn 806 triệu USD, tăng 71,28% về lượng và tăng 91,67% về trị giá so với cùng kỳ. Lượng xe 9 chỗ ngồi trở xuống nhập về là gần 16,5 nghìn chiếc, tăng 56,2%; ô tô tải là hơn 15,2 nghìn chiếc, tăng 61% và ô tô loại khác là gần 5,6 nghìn chiếc, tăng mạnh 223% so với cùng kỳ năm 2013.

Hàn Quốc tiếp tục là thị trường chính cung cấp ô tô nguyên chiếc cho Việt Nam với 10,3 nghìn chiếc, tăng 4,3%. Tiếp theo là Thái Lan với hơn 7,4 nghìn chiếc, tăng mạnh 64,3%; Trung Quốc đã đạt gần 7 nghìn chiếc, tăng mạnh tới 187%.

 (ST)

Công bố tuyến vận tải ven biển từ Quảng Bình đến Kiên Giang

 



Ngày 5/10, tại cảng Thuận An, tỉnh Thừa Thiên Huế, Bộ Giao thông Vận tải chính thức công bố tuyến vận tải ven biển từ Quảng Bình đến Kiên Giang chia làm hai tuyến là Quảng Bình đến Bình Thuận và Kiên Giang đến Bình Thuận. 

Phạm vi hoạt động của các tuyến này cách bờ không quá 12 hải lý, dành cho phương tiện thủy nội địa mang cấp SB (sông pha biển).

Phát biểu tại lễ công bố, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Công cho biết, qua tổng kết tuyến vận tải ven biển Quảng Ninh đến Bình Thuận đã phát huy hiệu quả chia lửa cho giao thông đường bộ, qua đó giảm tình trạng tai nạn giao thông, giảm tình trạng xe chở quá tải trọng trên các tuyến quốc lộ, đặc biệt là bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông, giảm giá cước vận tải. Chính vì vậy, Bộ Giao thông Vận tải đã quyết định mở tiếp hai tuyến vận tải này.

Như vậy, 2 tuyến vận tải ven biển mới này sẽ nối vào tuyến đang hoạt động là Quảng Ninh-Quảng Bình tạo thành tuyến vận tải ven biển thông suốt từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. 

Tuyến Quảng Bình đến Bình Thuận có chiều dài bờ biển 858km đi qua các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. 

Tuyến Kiên Giang đến Bình Thuận có chiều dài bờ biển 700km đi qua các tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa-Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang.

Qua khảo sát của Cục Hàng hải Việt Nam, nhu cầu vận chuyển hàng hóa trên các tuyến vận tải này là rất lớn. 

Chỉ tính riêng tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi năm lượng hàng hóa vận chuyển ước đạt khoảng 51,5 triệu tấn. Trong đó, nhu cầu vận chuyển hơn 2,1 triệu tấn vật tư, cấu kiện bêtông, để cung ứng cho dự án thi công luồng tàu biển vào sông Hậu và các công trình phụ trợ được đúc tại bãi ở Bà Rịa-Vũng Tàu.

Còn tại Bình Thuận, nhu cầu vận chuyển vật tư, trang thiết bị phục vụ xây dựng nhà máy Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân cũng như thi công các công trình bến cảng chuyên dùng Vĩnh Tân cũng rất lớn.

Cũng theo Cục Hàng hải Việt Nam, tại khu vực Đà Nẵng các doanh nghiệp có nhu cầu vận chuyển hàng hóa như xăng dầu, clinker, phân bón, gỗ, sắt thép… khối lượng trên 400.000 tấn/năm. 

Các mặt hàng nói trên chủ yếu cần vận chuyển từ Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa vào Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng và chiều ngược lại. 

Bên cạnh đó, một số loại hàng cần vận chuyển từ khu vực Đà Nẵng đi Quy Nhơn (Bình Định). 

Hiện tại, theo báo cáo của các doanh nghiệp trên tuyến này hiện nay chủ yếu vận chuyển bằng đường bộ.

Để nâng cao an toàn hơn nữa cho các hoạt động trên tuyến ven biển, ông Trần Đức Lanh, Giám đốc Công ty cổ phần thương mại và vận tải Thái Hà (hiện có 10 tàu đang hoạt động trên các tuyến ven biển) kiến nghị, Bộ Giao thông Vận tải tạo điều kiện giúp đỡ hướng dẫn phổ biến về thủ tục tàu thuyền ra vào bến cảng biển, quy định về an toàn, an ninh hàng hải, phòng ngừa ô nhiễm môi trường và công tác phối hợp tìm kiếm cứu nạn trên biển, đào tạo thuyền viên... cho các doanh nghiệp tham gia các tuyến vận tải này.

Theo tổng kết sau khi tuyến vận tải ven biển Quảng Ninh đến Quảng Bình, nhiều doanh nghiệp hiện đã chuyển sang vận tải ven biển do giá cước rẻ hơn so với vận chuyển đường bộ. 

Báo cáo của các doanh nghiệp gửi về Cục Hàng hải Việt Nam, cước vận tải đường bộ từ Hải Phòng đi Thanh Hóa cho một container 20 feet vào khoảng 10 đến 12 triệu đồng; đi Nghệ An-Hà Tĩnh khoảng 18 đến 20 triệu đồng.

Trong khi vận tải bằng đường thủy từ Hải Phòng đi Thanh Hóa chỉ 2,4 triệu đồng, đi Nghệ An-Hà Tĩnh khoảng 3 đến 3,2 triệu đồng. Về thời gian vận chuyển từ Hải Phòng đi Thanh Hóa bằng đường bộ khoảng 6 giờ, trong khi bằng đường thủy khoảng 10 giờ./.
(ST)

Chuyên mục phụ

Hỗ trợ trực tuyến

3727677
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tổng
1513
2211
18121
1623386
6970
3727677

Your IP: 52.14.224.197
Server Time: 2024-05-03 12:20:58

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN

Mr Giang Tử - 0913.329.033
Mrs Nga - 0903.228.574

 

 

Trang web hiện có:
36 khách & 0 thành viên trực tuyến