Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh do đàm phán thương mại Mỹ-Trung thiếu đột phá, gây sức ép lên tâm lý nhà đầu tư.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent giao tháng 1/2020 giảm 1,53 USD xuống 60,91 USD/thùng tại Sàn London. Trong khi đó, giá dầu Tây Texas (WTI) giao tháng 12/2019 giảm 1,84 USD xuống 55,21 USD/thùng tại Sàn giao dịch hàng hóa New York.
Nhà phân tích về hàng hóa Robbie Fraser của Schneider Electric cho rằng việc thiếu đột phá trong đàm phán thỏa thuận thương mại "Giai đoạn 1" giữa Mỹ và Trung Quốc đang gây ra những trở ngại. Trung Quốc có thể sẽ chỉ đồng ý với thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 nếu Mỹ nhất trí dỡ bỏ một số loại thuế hiện hành, điều mà Tổng thống Mỹ phản đối.
Những lo ngại về cuộc chiến thương mại đã ảnh hưởng đến triển vọng tăng trưởng của kinh tế toàn cầu, từ đó làm giảm nhu cầu xăng dầu.
Giá dầu cũng giảm sau khi các nguồn tin cho biết Nga sẽ không thể nhất trí cắt giảm sản lượng hơn nữa tại cuộc họp với các nước sản xuất dầu mỏ khác vào tháng tới.
Ngoài ra, việc đồng USD lên giá đã khiến dầu được định giá theo đồng tiền này ít hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các đồng tiền khác. Chỉ số USD, đo giá trị của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền mạnh khác, tăng 0,07%, lên 97,8588.
Giới phân tích cũng lo ngại trước khi báo cáo dự trữ dầu hàng tuần của Mỹ được công bố, bởi dự trữ của nước này được cho là sẽ tăng.
Trên thị trường kim loại quý, vàng tăng do chứng khoán mất điểm. Kết thúc phiên, vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.474,65 USD/ounce sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ ngày 7/11; vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng hơn 0,2% đạt 1.474,30 USD/ounce.
Chỉ số Dow Jones giảm 94,8 điểm, hay 0,34%, xuống 27.941,42 điểm, ngay trước khi thị trường vàng đóng cửa. Khi các chỉ số chứng khoán đi xuống, giá vàng thường tăng do các nhà đầu tư tìm đến các tài sản an toàn.
Tuy nhiên, việc đồng USD lên giá đã hạn chế đà tăng của giá vàng. Chỉ số USD, đo giá trị của đồng tiền này so với rổ các đồng tiền mạnh khác, tăng 0,02%, lên 97,82.
Về các kim loại khác, giá bạc giao tháng 12/2019 tăng 11,8 US cent, hay 0,69%, lên 17,118 USD/ounce, giá bạch kim giao tháng 1/2020 tăng 17,3 USD, hay 1,93%, lên 912,3 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tăng với hy vọng Mỹ và Trung Quốc có thể đạt được thỏa thuận thương mại, nhưng mức tăng bị hạn chế bởi những lo ngại rằng thỏa thuận này không đầy đủ. Giá đồng kỳ hạn 3 tháng tại Sàn giao dịch kim loại London (LME) chốt phiên tăng hơn 0,8% đạt 5.875 USD/tấn.
Giá đồng có thể sẽ chịu áp lực từ nay đến cuối năm do một số vấn đề lớn liên quan đến chiến tranh thương mại vẫn chưa được giải quyết, nhà phân tích Daniel Briesemann của Commerzbank cho biết.
Các kim loại cơ bản khác giá cũng giảm. Giá nhôm giảm 0,4% xuống 1.731 USD/tấn, kẽm không đổi ở mức 2.43 USD, chì tăng 2% đạt 1.993 USD, thiếc giảm 0,5% xuống còn 15.975 USD và nickel giảm 1% xuống còn 14.690 USD.
Thâm hụt kẽm toàn cầu 9 tháng đầu năm 2019 đã thu hẹp xuống còn 156.000 tấn so với 272.000 tấn trong cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đó, thị trường chì thiếu hụt tới 83.000 tấn so với thiếu 34.000 tấn năm ngoái.
Giá quặng sắt Trung Quốc tiếp tục tăng phiên thứ 6 liên tiếp do giá thép tăng trong bối cảnh dự trữ giảm và các biện pháp hạn chế sản xuất nhằm giảm ô nhiễm không khí trong khi nhu cầu tăng cao.
Giá quặng sắt tại Sở giao dịch hàng hóa Đại Liên, kỳ hạn tháng 1/2020, chốt phiên tăng 0,6% đạt 636,50 CNY(90,63 USD)/tấn, sau lúc đầu phiên tăng lên 638 CNY/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 28/10. Giá quặng sắt trên Sàn giao dịch Singapore cũng tăng trở lại, với hợp đồng tháng 12/2019 tăng 0,7% đạt 83,85 USD/tấn.
Giá thép cây xây dựng tại Thượng Hải đã tăng 2,3% đạt 3.635 CNY/tấn, mức cao nhất kể từ ngày 26/7, thép cuộn cán nóng -  được sử dụng trong xe hơi và đồ gia dụng - tăng 0,9%, thép không gỉ Thượng Hải tăng 1,1%.
Do thời tiết không thuận lợi trong mùa đông năm nay có thể mang lại nhiều khói bụi trên khắp các tỉnh phía bắc nên Trung Quốc sẽ tiếp tục hạn chế sản xuất thép hơn nữa.
Việc hạn chế sản lượng thép và nhu cầu thép phục hồi trong tháng này, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, có thể khiến tồn kho thép, vốn đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1 năm nay, sẽ còn giảm hơn nữa.
Trên thị trường nông sản, giá cao su kỳ hạn tại Sàn giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) tăng lên mức cao nhất hơn 3,5 tháng do các nhà đầu tư hy vọng rằng việc cắt giảm lãi suất bất ngờ của Trung Quốc sẽ giúp thúc đẩy nền kinh tế, kích thích nhu cầu tiêu thụ.
Tại TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 4/2020 tăng hơn 0,3 JPY đạt 182,6 JPY(1,68 USD)/kg. Đầu phiên giá đã chạm 184,3 JPY, mức cao kể từ ngày 26/7.
Ngân hàng trung ương Trung Quốc bất ngờ cắt giảm lãi suất cho vay vào đầu tuần này, lần cắt giảm đầu tiên trong hơn 4 năm qua. Đây là tín hiệu cho thấy các nhà hoạch định chính sách đã sẵn sàng hành động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - đang chậm lại.
Tại Thượng Hải, giá cao su giao tháng 1/2020 đã tăng 160 CNY đạt 12.130 CNY(1.727 USD)/tấn. Giá cao su TSR 20 đã tăng 55 CNY đạt mức 10.260 CNY/tấn. Tại Singapore, giá cao su giao hàng tháng 12/2019 chốt phiên ở mức 136,2 US cent/kg, giảm 0,5%.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 tại New York giảm 0,08 cent, tương đương 0,6%, xuống 12,68 cent/lb. Trong khi đó, giá đường trắng giao tháng 3/2020 tại London giảm 2,90 USD, tương đương 0,9%, xuống còn 336,40 USD/tấn.
Giá cà phê cũng giảm do dư cung từ vụ thu hoạch trước (cao kỷ lục tại Brazil và Trung Mỹ). Giá cà phê Arabica giao tháng 3/2020 giảm 0,20 US cent, tương đương 0,2%, xuống còn 1,0905 USD/lb. Giá cà phê Robusta tháng 1/2020 giảm 22 USD, tương đương 1,6%, xuống còn 1.350 USD/tấn.

Giá hàng hóa thế giới

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

55,37

+0,16

+0,29%

Dầu Brent

USD/thùng

61,00

+0,09

+0,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.750,00

-710,00

-1,85%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,51

+0,00

+0,16%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

159,99

-0,38

-0,24%

Dầu đốt

US cent/gallon

186,14

+0,40

+0,22%

Dầu khí

USD/tấn

561,00

-6,50

-1,15%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

54.760,00

-690,00

-1,24%

Vàng New York

USD/ounce

1.473,20

-1,10

-0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.131,00

-1,00

-0,02%

Bạc New York

USD/ounce

17,08

-0,04

-0,22%

Bạc TOCOM

JPY/g

59,70

-0,20

-0,33%

Bạch kim

USD/ounce

909,66

-1,21

-0,13%

Palađi

USD/ounce

1.762,53

-2,48

-0,14%

Đồng New York

US cent/lb

266,45

-0,40

-0,15%

Đồng LME

USD/tấn

5.875,00

+45,00

+0,77%

Nhôm LME

USD/tấn

1.731,00

-7,00

-0,40%

Kẽm LME

USD/tấn

2.344,00

0,00

0,00%

Thiếc LME

USD/tấn

16.000,00

-60,00

-0,37%

Ngô

US cent/bushel

380,25

-0,50

-0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

516,50

+1,25

+0,24%

Lúa mạch

US cent/bushel

304,50

-3,25

-1,06%

Gạo thô

USD/cwt

12,09

0,00

0,00%

Đậu tương

US cent/bushel

913,25

+1,75

+0,19%

Khô đậu tương

USD/tấn

304,50

+0,30

+0,10%

Dầu đậu tương

US cent/lb

31,31

+0,15

+0,48%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

465,80

+0,60

+0,13%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.653,00

-11,00

-0,41%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

106,15

-3,05

-2,79%

Đường thô

US cent/lb

12,69

-0,07

-0,55%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,15

-0,40

-0,41%

Bông

US cent/lb

65,35

-0,62

-0,94%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

413,40

+0,40

+0,10%

Cao su TOCOM

JPY/kg

182,30

-0,30

-0,16%

Ethanol CME

USD/gallon

1,40

-0,01

-0,71%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg

Trích: http://vinanet.vn