Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm sau khi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) thông báo tồn trữ dầu thô của Mỹ bất ngờ tăng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent trên sàn London giảm 62 US cent xuống 63,72 USD/thùng, trong khi dầu Tây Texas (WTI) giảm 48 US cent xuống 58,76 USD/thùng.
Theo EIA, tồn trữ dầu thô của Mỹ tuần vừa qua tăng 822.000 thùng lên 447,9 triệu thùng, trái với dự báo của giới phân tích là giảm 2,8 triệu thùng. Con số này cao hơn khoảng 4% so với mức trung bình 5 năm qua. Tuy nhiên, theo EIA, trong tuần trước, tồn trữ dầu tại các kho ở Cushing (Oklahoma, Mỹ) - trung tâm phân phối dầu WTI - giảm 3,4 triệu thùng, mức giảm lớn nhất kể từ tháng 2/2018.
Thống kê cũng cho thấy tồn trữ xăng của Mỹ tăng 5,4 triệu thùng, gấp hơn 2 lần mức dự kiến trước đó của các nhà phân tích. Phil Flynn, nhà phân tích thuộc công ty Price Futures Group ở Chicago (Mỹ) nhận định những cơn bão mùa Đông đã gây ra tình trạng tuyết lớn tại một số bang của Mỹ vào tuần trước, qua đó ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ xăng và khiến lượng tồn trữ gia tăng.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) dự báo nhu cầu đối với dầu thô của tổ chức này sẽ ở mức trung bình 29,58 triệu thùng/ngày trong năm tới, thấp hơn sản lượng của OPEC trong tháng 11/2019.
Trong khi đó, tình hình căng thẳng thương mại Mỹ-Trung vẫn tiếp tục gây rủi ro lên triển vọng về nhu cầu dầu, khi thời hạn 15/12/2019 mà Mỹ dự kiến áp thuế đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc đang đến gần.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tiếp tục tăng sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) quyết định giữ nguyên lãi suất - động thái khiến lãi suất trái phiếu Mỹ và đồng USD cùng giảm.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng 0,7%, lên 1.474,62 USD/ounce, trong khi vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,5%, lên 1.475 USD/ounce.
Sau ba lần cắt giảm lãi suất kể từ tháng 7/2019, tại kỳ họp tháng 11/2019, Fed duy trì mức lãi suất ổn định trong khoảng 1,5%-1,75%. Ủy ban Thị trường mở liên bang - cơ quan hoạch định chính sách của Fed - cho rằng, quan điểm về chính sách tiền tệ hiện nay là thích hợp để hỗ trợ sự mở rộng liên tục của hoạt động kinh tế, các điều kiện thị trường lao động thuận lợi, và lạm phát gần với mục tiêu 2%. Ngay sau quyết định của Fed, vàng tăng mạnh, có lúc vượt 1.475 USD/ounce.
Về một số thông tin có tác động lên thị trường vàng, các cố vấn kinh tế và thương mại hàng đầu của Nhà Trắng dự kiến sẽ gặp Trump trong những ngày tới để thảo luận về việc liệu có trì hoãn việc áp thuế mới của Mỹ hay không. Trong khi đó, Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ tổ chức cuộc họp chính sách tiền tệ và họp báo đầu tiên khi Christine Lagarde làm chủ tịch vào hôm thứ năm.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng chạm mức cao nhất gần 5 tháng do hy vọng Mỹ sẽ trì hoãn kế hoạch tăng thuế lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc.
Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng tăng 0,9% lên 6.156 USD/tấn vào cuối phiên, sau có lúc khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 19/7/2019.
Đồng được sử dụng như một chỉ số quan trộng đánh giá sức khỏe kinh tế thế giới. Do cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung kéo dài nên giá đồng đang tăng chậm lại, tính từ đầu năm 2019 đến nay chỉ còn tăng 2,4%. Lượng đồng lưu kho trên sàn London hiện ở mức thấp nhất kể từ tháng 4/2019, là 181.700 tấn.
Tổ chức Nghiên cứu Đồng Quốc tế dự báo thị trường này sẽ thiếu hụt 320.000 tấn đồng trong năm nay, nhưng đến năm 2020 sẽ dư thửa 281.000 tấn.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm tăng 0,3% trong phiên vừa qua, lên 1.760 USD/tấn, kẽm giảm 0,2% xuống 2.222 USD/tấn, trong khi chì tăng 1,6% lên 1.937 USD/tấn.
Với nhóm sắt thép, giá quặng sắt tại Trung Quốc biến động giữa bối cảnh thị trường kỳ vọng việc các ngân hàng nước này tăng cường cho vay có thể giúp nhu cầu hàng hóa hồi phục.
Cuối phiên vừa qua, quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Đại Liên tăng 0,5% lên 659 CNY/tấn, mặc dù trước đó có lúc giảm 1,5% xuống 645 CNY (91,63 USD)/tấn). Thép cây kỳ hạn tháng 5/2020 tăng 0,7% lên 3.537 CNY/tấn; thép cuộn cán nóng tăng 1,5% lên 3.735 CNY/tấn.
Theo Ngân hàng Trung ương Trung Quốc, các ngân hàng nước này đã gia tăng 1,39 nghìn tỷ CNY các khoản vay mới trong tháng 11/2019, tăng mạnh so với tháng trước đó.
Dự báo nhu cầu kim loại đen của Trung Quốc sẽ tăng trong năm 2020 do hoạt động xây dựng sôi động nhờ các biện pháp kích thích kinh tế của Chính phủ.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê biến động trái chiều. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn New York kết thúc phiên tăng 1,9 US cent, hay 1,4%, lên 1.352 USD/lb, trong phiên có lúc giá đạt 1.3685 USD, cao nhất kể từ tháng 9/2017; rubusta kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London giảm 26 USD hay 2,7% xuống 1.427 USD/tấn.
Giá arabica tăng bởi dự báo thiếu hụt nguồn cung trong niên vụ 2019/20 và lo lắng về thời tiết khô hạn tại Brazil trong tháng 10/2019 có thể hạn chế sản lượng trong năm 2020/21.
Ngân hàng Rabobank dự báo nhu cầu cà phê arabica vẫn cao, nhất là những loại chất lượng tốt.
Các nhà xuất khẩu cà phê của Brazil đã xuất khẩu 2,8 triệu bao cà phê (60 kg/bao) trong tháng 11/2019, thấp hơn 22% so với cùng tháng năm trước và cũng thấp hơn 16% so với tháng 10/2019.
Đường giảm giá trong phiên vừa qua. Tại New York, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 0,04 US cent xuống 13,42 US cent/lb vào cuối phiên, sau khi có lúc đạt 13,51 US cent, cao nhất kể từ tháng 11/2018. Đường trắng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London giảm 0,6, USD hay 0,3%, xuống 351,9 USD/tấn, mặc dù trước đó có lúc đạt mức cao nhất kể từ tháng 2/2019, là 353,9 USD/tấn.
Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo tỷ lệ tồn kho và sử dụng đường trong niên vụ 2018/19 là 14,5%, không đổi so với dự báo tháng trước. Trong khi đó, USDA nâng dự báo tỷ lệ này trong vụ 2019/20 lên 13,5% so với 10,5% đưa ra ở dự báo trước.
Đối với mặt hàng cao su, giá biến động trái chiều giữa các thị trường. Tại Tokyo, giá giảm bởi các nhà đầu tư chờ đợi có thêm thông tin về đàm phán thương mại Mỹ - Trung khi thời hạn áp thuế mới đang đến gần.
Kết thúc phiên vừa qua, cao su kỳ hạn tháng 5/2020 trên sàn Tokyo giảm 0,2 JPY xuống 198,2 JPY (1,82 USD)/kg; trong khi đó trên sàn Thượng Hải, cao su kỳ hạn tháng 5/2019 tăng 20 CNY lên 13.275 CNY (1.886 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
58,76
|
-0,48
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,72
|
-0,62
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
39.970,00
|
-150,00
|
-0,37%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,26
|
+0,02
|
+0,67%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
163,50
|
+0,89
|
+0,55%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
193,44
|
+0,56
|
+0,29%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
579,00
|
-11,25
|
-1,91%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
56.790,00
|
-120,00
|
-0,21%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.477,62
|
+9,1
|
+0,7%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.137,00
|
+27,00
|
+0,53%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
16,95
|
+0,11
|
+0,63%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,10
|
+0,80
|
+1,37%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
939,04
|
-0,90
|
-0,10%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.913,24
|
+0,33
|
+0,02%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
279,35
|
+0,40
|
+0,14%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
6.156,00
|
+56,00
|
+0,92%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.760,00
|
+5,00
|
+0,28%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.222,00
|
-5,50
|
-0,25%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
17.290,00
|
-100,00
|
-0,58%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,75
|
+0,50
|
+0,13%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
518,25
|
-1,00
|
-0,19%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
293,00
|
-0,75
|
-0,26%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,43
|
-0,02
|
-0,16%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
893,50
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
299,50
|
+0,20
|
+0,07%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
31,75
|
+0,04
|
+0,13%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
462,80
|
-5,20
|
-1,11%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.568,00
|
-17,00
|
-0,66%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
135,20
|
+1,90
|
+1,43%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
13,42
|
-0,04
|
-0,30%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
98,25
|
-0,60
|
-0,61%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,88
|
-0,05
|
-0,08%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
396,60
|
+3,90
|
+0,99%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
198,40
|
+0,20
|
+0,10%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,32
|
-0,02
|
-1,20%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg
Trích: http://vinanet.vn