Hồi đầu tháng 7 này, công ty quốc doanh ChemChina của Trung Quốc đã chốt thương vụ 44 tỉ USD để mua lại tập đoàn hạt giống và thuốc trừ sâu Syngenta (Thụy Sĩ). Đó là thương vụ thâu tóm ở nước ngoài lớn nhất mà một doanh nghiệp Trung Quốc từng thực hiện.
 Sau đó, tới lượt Dow Chemical (Mỹ) thông báo rằng một quỹ nông nghiệp được chính phủ Trung Quốc chống lưng sẽ trả 1,1 tỉ USD để mua lại bộ phận nghiên cứu và sản xuất hạt giống bắp ở Brazil của Dow. 
Theo Dealogic, các công ty Trung Quốc đã chi 91 tỉ USD trong thập kỷ qua để mua lại gần 300 công ty nước ngoài liên quan tới nông nghiệp, hóa chất và thực phẩm.
 Điều gì đã dẫn tới làn sóng chi tiêu mạnh tay này?
 An ninh lương thực 
Các chuyên gia cho rằng những thương vụ đó là một phần trong kế hoạch của Trung Quốc nhằm cải thiện khả năng cung cấp lương thực cho dân số gần 1,4 tỉ người của họ. Vì tiêu chuẩn sống của Trung Quốc đang được cải thiện và người dân có nhu cầu tiêu thụ thịt nhiều hơn, nên quốc gia này cần một nguồn cung thức ăn ổn định dành cho lượng gia súc ngày càng tăng.
 
Những thương vụ sáp nhập lớn gần đây trong ngành công nghệ nông nghiệp toàn cầu. Con số thể hiện doanh thu (tỷ USD) của các công ty tham gia sáp nhập. Ảnh: Nikkei
Tuy nhiên, theo Rob Bailey, một chuyên gia về an ninh lương thực tại viện chính sách Chatham House, Trung Quốc đang phải đối mặt với những thách thức lớn: lực lượng lao động nông nghiệp đang già đi, ô nhiễm, biến đổi khí hậu và mức độ thoái hóa đất cao. 
Các nông trại của Trung Quốc cũng đang có năng suất thấp vì kĩ thuật canh tác lỗi thời, theo đánh giá của Brett Stuart, CEO và đồng sáng lập của Global AgriTrends. 
Những thương vụ mua các công ty hạt giống gần đây cho thấy Trung Quốc muốn nắm bắt kiến thức khoa học cần thiết để cải thiện năng suất trong nước, Stuart nói. 
“Họ đang cố gắng thu gom kiến thức. Tôi nghĩ những động thái này chỉ cho thấy rằng họ đang cố gắng làm càng nhiều càng tốt để có thể tự cung tự cấp lương thực. Sẽ không có đủ lương thực được xuất khẩu trên thế giới để cứu họ nếu họ thất bại”, ông nói. 
Tất cả các quốc gia đều cố gắng để không bị thiếu hụt lương thực. Tuy vậy, vấn đề này là đặc biệt nhạy cảm ở Trung Quốc, nơi từng rơi vào nạn đói kỷ lục khiến hàng triệu người chết trong giai đoạn 1958-1962.
Lợi ích quốc gia 
Các thương vụ mua lại những công ty nông nghiệp nước ngoài của Trung Quốc mang tầm lợi ích quốc gia, nhưng điều này cũng làm dấy lên những lo ngại về cách mà các quốc gia và công ty có thể phản ứng thế nào với một cuộc khủng hoảng lương thực thời hiện đại.
“Những quốc gia sẽ ngày càng quan tâm về chuyện họ có thể bảo đảm rằng mình có thể tiếp tục tiếp cận các nguồn cung lương thực như thế nào trong trường hợp bị mất mùa lớn”, Bailey cảnh báo.
Nhu cầu tiêu thụ thịt heo (đỏ), gia cầm (xanh lá) và bò (xanh dương) tính theo đầu người ở Trung Quốc được dự kiến tiếp tục gia tăng mạnh. Ảnh: Bộ Nông nghiệp Mỹ
 
Nhiều công ty Trung Quốc đang được sự hỗ trợ của chính phủ nước này để thâu tóm các công ty nước ngoài. Trong trường hợp xảy ra thiếu hụt lương thực toàn cầu, có rủi ro là thay vì tôn trọng các hợp đồng kinh doanh, những công ty sẽ “tập trung vào việc mang lương thực về thị trường nước mình”, Bailey nói.
Những lo ngại về an ninh lương thực quốc gia tại Mỹ đã nổi lên hồi năm 2013 khi Shuanghui International của Trung Quốc mua lại công ty sản xuất thịt heo Smithfield Foods của Mỹ, nhưng cho tới nay thì sản lượng thịt heo cũng không thay đổi đáng kể và nguồn cung thịt của Mỹ không bị chuyển về Trung Quốc, Stuart nói. 
“Khi Trung Quốc tăng cường thâu tóm nhiều tài sản nông nghiệp bên ngoài Trung Quốc thì mối lo ngại có thể trở nên lớn hơn”, Stuart nói.
Trung Quốc hiện không phải là quốc gia duy nhất đang có những động thái củng cố năng lực nông nghiệp của họ. Những quốc gia như Saudi Arabia và Nhật Bản cũng đang thâu tóm các doanh nghiệp trong chuỗi cung cấp lương thực toàn cầu, nhưng những hành động của họ không gây nhiều sự chú ý như Trung Quốc, Bailey nói.

Nguồn: Thanh Hải/Nhịp Cầu Đầu Tư