Trên thị trường năng lượng, giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm hơn 1% sau khi đạt mức cao nhất 5 tháng vào đầu tuần này, do thị trường dầu giảm và lo ngại triển vọng nhu cầu yếu. Hợp đồng giao dịch khí tự nhiên kỳ hạn tháng 10/2019 trên sàn New York giảm 2 US cent hay 1,2% xuống 2,637 USD/mmBtu.
Giá dầu tiếp tục giảm trong bối cảnh căng thẳng vùng Vịnh leo thang và số liệu cho thấy dự trữ dầu thô của Mỹ gia tăng. Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ (WTI) giảm 1,23 USD xuống 58,11 USD/thùng, trong khi dầu Brent giảm 0,95 USD xuống 63,6 USD/thùng.
Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo ngày 18/9 đã gọi các cuộc tấn công vào hai cơ sở lọc dầu trọng yếu của Saudi Arabia là một “hành động chiến tranh”. Bộ trưởng Quốc phòng Saudi Arabia tổ chức cuộc họp báo để công bố những mảnh vỡ của các máy bay không người lái và tên lửa mà nước này khẳng định đã được sử dụng trong các vụ tấn công nhằm vào các cơ sở lọc dầu của Riyadh như những bằng chứng "không thể phủ nhận” của cuộc tấn công từ Iran.
Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm 18/9 cho biết ông đã ra lệnh tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Iran, động thái mới nhất từ Mỹ nhằm gây áp lực với Tehran.
Báo cáo hàng tuần về tình hình xăng dầu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ được công bố cùng ngày cho biết, dự trữ dầu thô thương mại của Mỹ tăng 1,1 triệu thùng trong tuần kết thúc ngày 13/9. Với 417,1 triệu thùng, dự trữ dầu thô của Mỹ thấp hơn 2% so với mức trung bình ở cùng thời điểm này của 5 năm qua.
Dầu thô cũng bị áp lực giảm sau khi Cục dự trữ Liên bang Mỹ cắt giảm lãi suất lần thứ 2 trong năm nay khiến USD tăng giá. Đồng USD mạnh lên khiến dầu đắt hơn đối với những người mua bằng các đồng tiền khác.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế cho biết, hiện tại họ thấy không cần phải giải phóng kho dầu dự trữ chiến lược. Bộ trưởng Năng lượng Saudi Arabia cho biết sản lượng dầu trung bình của quốc gia này trong tháng 9 và 10 sẽ là 9,89 triệu thùng/ngày và khẳng định nguồn cung dầu cho các khách hàng sẽ được đáp ứng đầy đủ.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng phiên thứ 3 liên tiếp trước khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thông báo hạ lãi suất lần thứ hai trong năm nay, theo đó lãi suất giảm 25 điểm cơ bản xuống biên độ 1,75-2% như đã được nhận định rộng rãi.
Kết thúc phiên, vàng giao tháng 12/2019 tăng 2,4 USD, hay 0,16%, lên 1.515,8 USD/ounce. Tuy nhiên, vàng giao ngay giảm nhẹ xuống 1.487,35 USD/ounce.
Tuy nhiên, đà tăng giá của kim loại quý bị hạn chế do đồng USD mạnh lên. Chỉ số USD, thước đo giá trị của đồng tiền này so với sáu đồng tiền mạnh khác, tăng 0,26%, lên 98,52 điểm. Giá vàng thường biến động ngược chiều so với đồng USD, có nghĩa giá kim loại này sẽ giảm khi đồng tiền này tăng, bởi vàng sẽ trở nên đắt hơn cho những người mua bằng đồng tiền khác.
Về những kim loại khác, giá bạc giao tháng 12 giảm 22,1 US cent tương đương hay 1,22% xuống 17,919 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giao tháng 10/2019 giảm 9,6 USD, hay 1,02%, xuống 934,6 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm do lo ngại về tăng trưởng kinh tế và nhu cầu, mặc dù hy vọng sẽ có một giải pháp để giải quyết tranh chấp thương mại kéo dài giữa Trung Quốc và Mỹ kiềm chế đà giảm. Hoạt động sản xuất yếu tại Trung Quốc đã ảnh hưởng tới giá kim loại công nghiệp bởi Trung Quốc chiếm gần một nửa lượng tiêu thụ các kim loại như đồng.
Trên sàn London, đồng kỳ hạn giao sau 3 tháng giảm 0,1% xuống 5.814 USD/tấn. Tuần trước, giá đồng đã lập kỷ lục cao nhất 1,5 tháng, là 5.980 USD/tấn.
Hôm 17/9 Tổng thống Trump cho biết chính quyền của ông có thể đạt được thỏa thuận thương mại với Trung Quốc trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ hoặc trong ngày đầu cử tri đi bỏ phiếu.
Tuy nhiên, các nhà phân tích dự kiến tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ phục hồi trong vài tháng tới do chính phủ nước này cắt giảm lãi suất và tung ra các biện pháp kích thích hơn nữa để thúc đẩy hoạt động kinh tế.
Giá quặng sắt trên thị trường Trung Quốc giảm phiên thứ 3 liên tiếp, bởi lượng quặng nhập khẩu về các cảng của Trung Quốc ngày càng tăng. Quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 2,2% lên 680 CNY (95,96 USD)/tấn trước khi đóng cửa giảm 0,7% xuống 661 CNY/tấn. Thép thanh kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 1,3% xuống 3.493 CNY/tấn, là phiên thứ 2 liên tiếp giảm. Thép cuộn cán nóng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Thượng Hải giảm 0,9% xuống 3.510 CNY/tấn.
Nhập khẩu quặng sắt vào Trung Quốc trong tuần 9 - 15/9 đạt 24,1 triệu tấn, tăng 6,3 triệu tấn so với một tuần trước, theo công ty Mysteel. Nhập khẩu từ Australia và Brazil tăng 890.000 tấn trong tuần trước lên 21,9 triệu tấn.
Cơ quan kế hoạch Trung Quốc tháng 8/2019 đã chấp thuận 9 dự án đầu tư tài sản cố định trị giá tổng cộng 68,9 tỷ CNY. Việc gia tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng sẽ hỗ trợ cho thị trường quặng sắt và thép trong những tháng tới.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 12/2019 kết thúc phiên vững ở mức 1,035 USD/lb sau khi có lúc chạm mức cao nhất kể từ cuối tháng 7/2019 là 1,047 USD/lb. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2019 đóng cửa tăng 6 USD hay 0,46% lên 1.319 USD/tấn.
Thời tiết ở Brazil đã chuyển tốt khi có mưa, giúp làm giảm khô hạn trong giai đoạn cây nở hoa.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 đóng cửa giảm 0,06 US cent hay 0,25% xuống 11 US cent/lb do lo ngại sẽ dư cung trong ngắn hạn; trong khi đó đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,2 USD hay 0,06% lên 321 USD/tấn.
Nhiều khả năng giá đường sẽ tăng trong ngắn hạn do giá dầu thô tăng, sau đó sẽ giảm khi thị trường năng lượng đảo chiều. Về dài hạn, dự báo giá sẽ tăng khi thị trường đường thế giới chuyển sang thiếu hụt trong niên vụ 2019/2020.
Sản lượng củ cải đường của Pháp năm nay dự báo chỉ đạt 37,7 triệu tấn, giảm mạnh so với mức trung bình 5 năm do thời tiết bất lợi.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
58,11
|
-1,23
|
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,6
|
-0,95
|
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
38.850,00
|
-260,00
|
-0,66%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,63
|
0,00
|
-0,19%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
165,91
|
+0,14
|
+0,08%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
197,66
|
+0,33
|
+0,17%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
608,75
|
-2,25
|
-0,37%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
57.120,00
|
-150,00
|
-0,26%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.498,30
|
-17,50
|
-1,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.172,00
|
-39,00
|
-0,75%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,73
|
-0,19
|
-1,05%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
61,50
|
-0,70
|
-1,13%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
930,97
|
-0,72
|
-0,08%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.590,34
|
-1,11
|
-0,07%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
261,70
|
+0,40
|
+0,15%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.814,00
|
-7,00
|
-0,12%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.785,50
|
-6,50
|
-0,36%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.320,00
|
-29,00
|
-1,23%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.670,00
|
-180,00
|
-1,07%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,25
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
487,00
|
-2,50
|
-0,51%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
277,50
|
-0,25
|
-0,09%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,30
|
-0,01
|
-0,08%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
889,75
|
+1,00
|
+0,11%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
295,70
|
+0,30
|
+0,10%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,04
|
+0,04
|
+0,13%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
452,30
|
-0,20
|
-0,04%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.401,00
|
+7,00
|
+0,29%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
100,35
|
0,00
|
0,00%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,07
|
-0,03
|
-0,25%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,10
|
-1,75
|
-1,74%
|
Bông
|
US cent/lb
|
60,80
|
+0,30
|
+0,50%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
382,00
|
+5,70
|
+1,51%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
170,60
|
+0,30
|
+0,18%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,39
|
+0,01
|
+0,58%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg
Trích: http://vinanet.vn