Cùng với các tuyến ven biển, Chính phủ yêu cầu nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường đôi khổ 1.435 mm, trong đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ưu tiên xây dựng trước đoạn Hà Nội - Vinh.
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm 3 miền: Bắc, Trung, Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Theo đó, đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Chính phủ đề ra mục tiêu đến năm 2020, tiếp tục hoàn thành cải tạo, nâng cấp để khai thác hiệu quả mạng đường sắt hiện có, trong đó ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam, hoàn thành tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân và đảm bảo tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội; từng bước kết nối đường sắt với cảng biển, cảng cạn, khu kinh tế, khu mỏ và các trung tâm du lịch lớn.
Về quy hoạch phát triển vận tải, tổ chức vận tải hợp lý trên 6 hành lang vận tải chính gồm: Bắc - Nam, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Quảng Ninh, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Lạng Sơn, Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Về quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó với đường sắt, nâng cấp, từng bước hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam, đoạn trong vùng dài khoảng 33 km, để đạt tốc độ chạy tàu bình quân 80 - 90 km/h đối với tàu khách, 50 - 60 km/h đối với tàu hàng.
Cải tạo, nâng cấp từng bước đưa vào cấp kỹ thuật đường sắt quốc gia các tuyến: Hà Nội - Lào Cai, đoạn trong vùng dài khoảng 42,5 km; Hà Nội - Hải Phòng dài khoảng 96 km; Đông Anh - Quán Triều dài khoảng 54,6 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 18,5 km; Hà Nội - Đồng Đăng dài khoảng 156 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 22,5 km.
Đối với các tuyến đường sắt xây dựng mới, hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng toàn tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân, dài khoảng 129 km. Nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường đôi khổ 1.435 mm, trong đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ưu tiên xây dựng trước đoạn Hà Nội - Vinh; nghiên cứu, xây dựng các tuyến đường sắt: Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Đồng Đăng.
Đặc biệt, Chính phủ giao các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng các tuyến đường sắt sau năm 2020 gồm: Tuyến ven biển Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh, dài khoảng 120 km; Hạ Long - Mũi Chùa - Móng Cái, dài khoảng 150 km.
Hoàn thành và đưa vào khai thác một số tuyến đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội (Cát Linh - Hà Đông, Nhổn - ga Hà Nội); đồng thời tiếp tục đầu tư các tuyến đường sắt đô thị khác theo quy hoạch được duyệt.
Đối với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, sẽ phát triển 5 hành lang vận tải chính của vùng gồm: hành lang ven biển, hành lang Đà Nẵng - quốc lộ 1 - quốc lộ 9 - Lao Bảo và hành lang Đà Nẵng - quốc lộ 14B - 14D - Nam Giang, hành lang Đà Nẵng - Tây Nguyên, hành lang Dung Quất - Tây Nguyên, hành lang Quy Nhơn - Tây Nguyên.
Đồng thời, tiến hành nâng cấp đường sắt Bắc - Nam hiện có để nâng cao hiệu quả khai thác; huy động nguồn vốn để xây dựng các tuyến đường sắt nhánh nối từ đường sắt quốc gia đến các cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế; nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến đường sắt đôi tốc độ cao, khổ 1.435 mm.
Đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Chính phủ yêu cầu tăng cường tính kết nối vùng và kết nối giữa các phương thức vận tải, hình thành các đầu mối kết nối vận tải tại các cảng biển Vũng Tàu (khu Cái Mép - Thị Vải), cảng biển Tp.HCM, cảng biển Đồng Nai, các cảng cạn; trung tâm dịch vụ logistics; Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không quốc tế Long Thành; các ga đường sắt Bình Triệu, Tân Kiên, Thủ Thiêm, An Bình, Trảng Bom, ga Long Định; các bến xe khách liên tỉnh như bến xe miền Tây mới, Ngã Tư Ga, miền Đông 1 mới, miền Đông 2 mới, Đa Phước, xuyên Á, miền Đông và các bến xe liên tỉnh tại các tỉnh trong vùng...
Đồng thời đẩy mạnh vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics; xây dựng và phát triển các trung tâm dịch vụ logistics lớn tại các khu vực đầu mối như Cát Lái (Tp.HCM), Sóng Thần (tỉnh Bình Dương), Cái Mép Hạ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và các trung tâm khác trong Vùng theo quy hoạch của địa phương...
Theo đó, đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Chính phủ đề ra mục tiêu đến năm 2020, tiếp tục hoàn thành cải tạo, nâng cấp để khai thác hiệu quả mạng đường sắt hiện có, trong đó ưu tiên nâng cấp, hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam, hoàn thành tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân và đảm bảo tiến độ xây dựng các tuyến đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội; từng bước kết nối đường sắt với cảng biển, cảng cạn, khu kinh tế, khu mỏ và các trung tâm du lịch lớn.
Về quy hoạch phát triển vận tải, tổ chức vận tải hợp lý trên 6 hành lang vận tải chính gồm: Bắc - Nam, Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Quảng Ninh, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Lạng Sơn, Ninh Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Về quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, trong đó với đường sắt, nâng cấp, từng bước hiện đại hóa tuyến đường sắt Bắc - Nam, đoạn trong vùng dài khoảng 33 km, để đạt tốc độ chạy tàu bình quân 80 - 90 km/h đối với tàu khách, 50 - 60 km/h đối với tàu hàng.
Cải tạo, nâng cấp từng bước đưa vào cấp kỹ thuật đường sắt quốc gia các tuyến: Hà Nội - Lào Cai, đoạn trong vùng dài khoảng 42,5 km; Hà Nội - Hải Phòng dài khoảng 96 km; Đông Anh - Quán Triều dài khoảng 54,6 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 18,5 km; Hà Nội - Đồng Đăng dài khoảng 156 km, đoạn trong Vùng dài khoảng 22,5 km.
Đối với các tuyến đường sắt xây dựng mới, hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng toàn tuyến đường sắt Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân, dài khoảng 129 km. Nghiên cứu xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, đường đôi khổ 1.435 mm, trong đó chuẩn bị các điều kiện cần thiết để ưu tiên xây dựng trước đoạn Hà Nội - Vinh; nghiên cứu, xây dựng các tuyến đường sắt: Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Đồng Đăng.
Đặc biệt, Chính phủ giao các cơ quan chức năng nghiên cứu xây dựng các tuyến đường sắt sau năm 2020 gồm: Tuyến ven biển Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh, dài khoảng 120 km; Hạ Long - Mũi Chùa - Móng Cái, dài khoảng 150 km.
Hoàn thành và đưa vào khai thác một số tuyến đường sắt đô thị tại Thủ đô Hà Nội (Cát Linh - Hà Đông, Nhổn - ga Hà Nội); đồng thời tiếp tục đầu tư các tuyến đường sắt đô thị khác theo quy hoạch được duyệt.
Đối với vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, sẽ phát triển 5 hành lang vận tải chính của vùng gồm: hành lang ven biển, hành lang Đà Nẵng - quốc lộ 1 - quốc lộ 9 - Lao Bảo và hành lang Đà Nẵng - quốc lộ 14B - 14D - Nam Giang, hành lang Đà Nẵng - Tây Nguyên, hành lang Dung Quất - Tây Nguyên, hành lang Quy Nhơn - Tây Nguyên.
Đồng thời, tiến hành nâng cấp đường sắt Bắc - Nam hiện có để nâng cao hiệu quả khai thác; huy động nguồn vốn để xây dựng các tuyến đường sắt nhánh nối từ đường sắt quốc gia đến các cảng biển, khu công nghiệp, khu kinh tế; nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến đường sắt đôi tốc độ cao, khổ 1.435 mm.
Đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Chính phủ yêu cầu tăng cường tính kết nối vùng và kết nối giữa các phương thức vận tải, hình thành các đầu mối kết nối vận tải tại các cảng biển Vũng Tàu (khu Cái Mép - Thị Vải), cảng biển Tp.HCM, cảng biển Đồng Nai, các cảng cạn; trung tâm dịch vụ logistics; Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, Cảng hàng không quốc tế Long Thành; các ga đường sắt Bình Triệu, Tân Kiên, Thủ Thiêm, An Bình, Trảng Bom, ga Long Định; các bến xe khách liên tỉnh như bến xe miền Tây mới, Ngã Tư Ga, miền Đông 1 mới, miền Đông 2 mới, Đa Phước, xuyên Á, miền Đông và các bến xe liên tỉnh tại các tỉnh trong vùng...
Đồng thời đẩy mạnh vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics; xây dựng và phát triển các trung tâm dịch vụ logistics lớn tại các khu vực đầu mối như Cát Lái (Tp.HCM), Sóng Thần (tỉnh Bình Dương), Cái Mép Hạ (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) và các trung tâm khác trong Vùng theo quy hoạch của địa phương...
Trích nguồn : http://vneconomy.vn/