Warning
  • Sorry No Product Found!!.

Dầu cao nhất 3 tháng do dự trữ giảm, nhà đầu tư lạc quan

Dầu cao nhất 3 tháng do dự trữ giảm, nhà đầu tư lạc quan

 Giá dầu tiếp tục tăng trong phiên vừa qua để kết thúc tuần tăng thứ 4 liên tiếp do số liệu mới từ Mỹ cho thấy tồn trữ dầu thô của nước này giảm nhiều hơn dự đoán, trong khi số liệu kinh tế khả quan và lạc quan về thỏa thuận thương mại Mỹ - Trung.
Kết thúc phiên 27/12, dầu Brent tăng 24 US cent lên 68,16 USD/thùng, cao nhất kể từ giữa tháng 9/2019; tính từ cuối năm 2018 tới nay Brent đã tăng gần 27%. Dầu WTI cũng tăng 4 US cent lên 61,72 USD/thùng, mốc kỷ lục mới cao nhất trong vòng 3 tháng; WTI tăng 36% kể từ cuối năm 2018 tới nay.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần tới 20/12/2019 đã giảm 5,5%, lên 441,4 triệu thùng vượt xa mức giảm 1,7 triệu thùng mà các nhà phân tích dự báo.
Chứng khoán Mỹ tăng điểm càng tạo tâm lý lạc quan cho nhà đầu tư dầu mỏ. Chỉ số S&P 500 đang tiến tới kết thúc một năm tăng nhiều nhất kể từ 1997; trong khi Nasdaq ngày 26/12/2019 vượt ngưỡng 9.000 điểm lần đầu tiên trong lịch sử.
Khối lượng giao dịch không nhiều vì đang là kỳ nghỉ lễ Giáng sinh và Năm mới. Tuy nhiên, thị trường dầu mỏ vẫn thể hiện tâm lý lạc quan một phần cũng bởi số liệu cho thấy lợi nhuận của các công ty công nghiệp Trung Quốc tháng 11/2019 tăng nhanh nhất trong vòng 8 tháng. Trong khi đó ở Mỹ, kết quả thăm dò cho thấy doanh số mua hàng trực tuyến trong dịp nghỉ lễ này đạt mức cao kỷ lục.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes cho biết các công ty năng lượng của Mỹ đã giảm tám giàn khoan dầu đang hoạt động, mức giảm đầu tiên trong ba tuần, khi các nhà sản xuất thực hiện kế hoạch cắt giảm chi tiêu.
 Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ và các đồng minh bao gồm Nga, được gọi là OPEC +, trong tháng này đã quyết định kéo dài một thỏa thuận hạn chế sản lượng dầu cho đến cuối tháng 3 và tăng cường cắt giảm nhằm cân bằng thị trường dầu mỏ.
Nhưng OPEC + có thể xem xét kết thúc việc giảm sản lượng dầu vào năm 2020, Bộ trưởng Năng lượng Nga Alexander Novak cho biết trong ngày 27/12.
Nguồn: VITIC/Reuters

Điện thoại và linh kiện có thị phần lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Pháp

Điện thoại và linh kiện có thị phần lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Pháp

 Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Pháp trong 11 tháng đầu năm 2019 đạt 3,5 tỷ USD, giảm nhẹ 0,29% so với cùng kỳ.
Chiếm thị phần cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu 11 tháng là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện với 35,35% đạt 1,2 tỷ USD, nhưng vẫn giảm 4,41% so với cùng kỳ năm ngoái, mặc dù trong tháng 11 tăng khá mạnh 40,57% so với tháng trước đó đạt 120,46 triệu USD.
Ngược lại, gạo là mặt hàng chiếm thị phần thấp nhất chỉ với 0,02% đạt 953.691 triệu USD, nhưng tăng mạnh 57,94% và tăng cả lượng 99,14% đạt 1.629 tấn so với cùng kỳ.
Pháp giảm nhập khẩu nhiều nhất là mặt hàng cà phê, với mức giảm 15,61% về lượng đạt 29.599 tấn và 26,62% về trị giá đạt 44,89 triệu USD.

 Hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Pháp 11 Tháng/2019

(*Tính toán số liệu từ TCHQ)

Mặt hàng

11 tháng năm 2019

So với cùng kỳ 2018 (%)*

Lượng (tấn)

Trị giá (USD)

Lượng

Trị giá

Tổng

 

3.507.549.366

 

-0,29

Hàng thủy sản

 

 

90.931.463

 

 

-7,62

Hàng rau quả

 

 

25.350.887

 

 

16,45

Hạt điều

5.060

41.770.895

26,98

0,71

Cà phê

29.599

44.895.319

-15,61

-26,62

Hạt tiêu

3.170

8.741.365

23,01

-1,00

Gạo

1.629

953.691

99,14

57,94

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

 

28.730.313

 

15,60

Sản phẩm từ chất dẻo

 

48.070.003

 

2,94

Cao su

3.454

5.202.581

1,80

2,38

Sản phẩm từ cao su

 

12.821.943

 

-1,67

Túi xách, ví,vali, mũ, ô, dù

 

104.066.816

 

7,33

Sản phẩm mây, tre, cói và thảm

 

19.863.246

 

37,54

Gỗ và sản phẩm gỗ

 

114.042.306

 

-0,46

Hàng dệt, may

 

557.413.701

 

-1,64

Giày dép các loại

 

469.155.430

 

4,36

Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày

 

15.137.121

 

-21,96

Sản phẩm gốm, sứ

 

11.593.841

 

13,74

Đá quý, kim loại quý và sản phẩm

 

22.200.251

 

-12,55

Sản phẩm từ sắt thép

 

16.088.449

 

-13,19

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

 

247.372.291

 

11,26

Điện thoại các loại và linh kiện

 

1.207.049.226

 

-4,41

Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

 

85.426.266

 

-0,41

Dây điện và dây cáp điện

 

5.530.173

 

28,12

Phương tiện vận tải và phụ tùng

 

71.790.700

 

22,53

Đồ chơi, dụng cụ thể thao và bộ phận

 

20.901.600

 

11,23

Hàng hóa khác

 

232.449.489

 

 

 

 Nguồn: VITIC
Trích: http://vinanet.vn

Xuất khẩu nông sản, trái cây Việt Nam: Cơ hội từ các thị trường mới

Xuất khẩu nông sản, trái cây Việt Nam: Cơ hội từ các thị trường mới

 Bộ Công Thương đang rất tích cực phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng triển khai đồng bộ, quyết liệt một số nội dung nhằm thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt. 
Rau quả là mặt hàng có mức tăng trưởng xuất khẩu ấn tượng nhất của ngành Nông nghiệp trong suốt nhiều năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2018 đạt 26,5%. Có những thời điểm, sản phẩm rau quả có mức tăng trưởng ngang bằng, thậm chí vượt qua cả mặt hàng cà phê, bỏ xa các mặt hàng chủ lực khác như gạo, tiêu, điều,... Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu rau quả đã đạt 3,8 tỷ USD (tăng 8,8% so với cùng kỳ) với thị trường tiêu thụ rộng khắp 60 quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong 10 tháng đầu năm 2019, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,1 tỷ USD, giảm nhẹ 4,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Cơ hội từ các thị trường mới
Năm 2019 được đánh giá là một năm khó khăn đối với ngành rau quả Việt Nam khi Trung Quốc - thị trường xuất khẩu chủ đạo với tỷ trọng chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước tăng cường các biện pháp kiểm nghiệm, kiểm dịch, kiểm tra chất lượng, truy xuất nguồn gốc theo hướng chuyển từ “tiểu ngạch” sang “chính ngạch”. Kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đã giảm 14,5% trong 10 tháng đầu năm 2019 với mức kim ngạch đạt 2,08 tỷ USD. Đây cũng chính là nguyên nhân chính làm giảm kim ngạch xuất khẩu rau quả chung của Việt Nam trong 10 tháng qua.
Tuy nhiên, bù lại xuất khẩu rau quả Việt Nam sang các thị trường chính khác đều đạt mức tăng trưởng trên 10%, cụ thể: ASEAN tăng 26,6% (đạt 146,4 triệu USD), Hoa Kỳ tăng 10,7% (đạt 124,6 triệu USD), EU tăng 32,2% (đạt 121,7 triệu USD), Hàn Quốc tăng 12,4% (đạt 107,4 triệu USD), Nhật Bản tăng 26,2% (đạt 100,7 triệu USD)… Cơ cấu thị trường xuất khẩu rau quả có những chuyển dịch tích cực khi giảm sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc và tăng tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường khó tính như: EU, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản… Hàng rau quả vẫn là mặt hàng đầy tiềm năng của Việt Nam với khả năng tăng trưởng tốt ở nhiều thị trường mới. Việc giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc có thể sẽ là cơ hội mới để ta đa dạng hóa thị trường và tập trung vào các thị trường khó tính hơn.
Xuất khẩu rau quả Việt Nam đến các thị trường châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, ASEAN,…) sẽ tiếp tục tăng trưởng do quy mô thị trường và sức tiêu thụ lớn, thói quen tiêu dùng tương đồng, vị trí địa lý thuận lợi cho việc vận chuyển, mức thuế nhập khẩu các mặt hàng rau quả từ Việt Nam hầu hết đều đã về 0% do thực thi các Hiệp định thương mại tự do (ATIGA, VKFTA, VJEPA). Đối với các Hiệp định thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, theo cam kết thuế quan của các nước dành cho Việt Nam, phần lớn các sản phẩm rau củ quả tươi và chế biến được xóa bỏ thuế hoàn toàn ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Đây là yếu tố mới mở ra cơ hội cho xuất khẩu rau quả của Việt Nam khi mà hàng rau quả của Việt Nam tại các thị trường này vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ và còn nhiều dư địa để tăng trưởng.
Như vậy, có thể thấy, đối với mặt hàng rau quả, công tác đàm phán mở cửa thị trường về thuế quan, về quy tắc xuất xứ đã được thực hiện tốt trong thời gian qua. Các Hiệp định thương mại tự do đang là động lực lớn thúc đẩy xuất khẩu hàng rau quả của Việt Nam về trung và dài hạn.
Để có thể khai thác hết lợi ích từ các Hiệp định thương mại tự do, tận dụng các ưu đãi về thuế quan, Bộ Công Thương đã và đang nỗ lực triển khai những công việc cần thiết để thực thi các FTA và hỗ trợ doanh nghiệp khai thác lợi ích của các FTA như nội luật hóa các cam kết; tuyên truyền về tiến trình hội nhập và giải thích các cam kết; nghiên cứu, đánh giá tác động của các FTA, cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O), áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu...
Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng rất chú trọng đến công tác xúc tiến thương mại để củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu. Triển khai Đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020, Bộ Công Thương đã chỉ đạo và hướng dẫn các doanh nghiệp phân phối trong nước cũng như có vốn đầu tư nước ngoài triển khai các chương trình liên kết ổn định, lâu dài với nông dân để tiêu thụ rau quả, trái cây qua các hệ thống phân phối trong nước cũng như xuất khẩu thông qua các cơ sở phân phối của các doanh nghiệp này ở nước ngoài như hệ thống Lotte Mart, Emart tại Việt Nam và Hàn Quốc; tổ chức “Tuần hàng Việt Nam tại Pháp”, “Những ngày hàng Việt tại CHLB Đức” để đưa nông sản vào hệ thống phân phối của Tập đoàn Casino (Pháp), Tập đoàn Metro Cash & Carry (Đức)…
Các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nhiều nước như Singapore, Úc, U.A.E, Pháp, Đức, Hoa Kỳ... đã liên hệ, vận động các đầu mối nhập khẩu, phân phối trái cây nước sở tại nhập khẩu rau quả của Việt Nam và đã tổ chức nhiều hoạt động quảng bá trực tiếp đến người tiêu dùng nước sở tại, đặc biệt là các sản phẩm đã có thương hiệu trên thị trường.
Đồng thời, Bộ Công Thương cũng đã chủ động theo dõi, cập nhật tình hình diễn biến giá cả, tiến độ xuất khẩu các mặt hàng nông sản, những biến động của thị trường thế giới, nghiên cứu dự báo tình hình thị trường xuất khẩu, nhập khẩu (định kỳ hàng tuần đăng tải, công bố “Bản tin thị trường nông, lâm, thủy sản” trên chuyên trang của Cổng Thông tin điện tử Bộ Công Thương) để kịp thời thông báo, phổ biến, hướng dẫn các Hiệp hội, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm định hướng, tổ chức kế hoạch sản xuất, kinh doanh cho phù hợp, kịp thời chuẩn bị, ứng phó với những biến động của thị trường.
Nâng cao chất lượng là “chìa khóa” mở cửa các thị trường mới
Mặc dù ta đã thực hiện tốt vấn đề mở cửa thị trường về mặt thuế quan, tuy nhiên, có thể nhìn nhận, vấn đề đặt ra đối với ngành rau quả Việt Nam hiện nay là yếu tố chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Do quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, diện tích chuyên canh tập trung chỉ chiếm chưa tới 20% tổng diện tích trồng cây ăn quả cả nước; quy trình canh tác, quản lý dịch bệnh chưa được áp dụng đồng bộ, triệt để nên chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó kiểm soát được nguồn cung và vấn đề an toàn và khó áp dụng các chuẩn mực của thế giới về truy xuất nguồn gốc…; dẫn đến khó khăn trong việc đàm phán để được công nhận về quản lý chất lượng và quản lý an toàn thực phẩm (do vậy, nhiều mặt hàng rau quả, trái cây của Việt Nam dù đã được nước ngoài giảm thuế về 0% nhưng vẫn chưa thâm nhập được nhiều thị trường).
Hiện nay, Bộ Công Thương đang rất tích cực phối hợp thường xuyên, chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - là cơ quan chủ trì về công tác quản lý chất lượng, kiểm dịch động thực vật và an toàn thực phẩm đối với hàng hóa nông sản cùng phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng triển khai đồng bộ, quyết liệt một số nội dung sau: tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tăng cường kiểm soát nguồn cung và định hướng sản xuất gắn với tín hiệu thị trường; từng bước nâng cao và ổn định chất lượng nông sản xuất khẩu; tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn các hộ nông dân không chỉ về tiêu chuẩn của nước nhập khẩu mà còn về phương thức sản xuất, nuôi trồng phù hợp để đáp ứng các tiêu chuẩn đó; lập cơ sở dữ liệu về các biện pháp an toàn thực phẩm tại các thị trường xuất khẩu chính, công bố để các doanh nghiệp tham khảo…
Trong bối cảnh đã được mở cửa thị trường tối đa về mặt thuế quan, xuất xứ hàng hóa… như hiện nay, khi các giải pháp liên quan đến mở cửa thị trường về mặt kỹ thuật, đảm bảo chất lượng hàng hóa như đã nêu trên phát huy tác dụng, các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sẽ ghi nhận được những bứt phá mới trong xuất khẩu, đóng góp ngày càng quan trọng vào cơ cấu xuất khẩu chung của cả nước, nhằm hiện thực hóa các lợi thế về đàm phán mở cửa thị trường mà Bộ Công Thương đã nỗ lực thực hiện trong thời gian qua, góp phần phát triển bền vững xuất khẩu nông sản của ta trong bối cảnh mới.
Nguồn: VITIC
Trích: http://vinanet.vn

Mỏ dầu liên doanh Saudi Arabia, Kuwait sản xuất 320.000 thùng/ngày vào cuối năm 2020

Mỏ dầu liên doanh Saudi Arabia, Kuwait sản xuất 320.000 thùng/ngày vào cuối năm 2020

Vinanet - Bộ trưởng Năng lượng của Saudi Arabia cho biết mỏ dầu Kafji hoạt động liên doanh với Kuwait sẽ sản xuất 320.000 thùng dầu mỗi ngày vào cuối năm 2020.
Hoàng tử Abdulaziz bin Salman đưa ra thông báo tại tổ hợp mỏ dầu Khafji ở Saudi Arabia, một ngày sau khi ký thỏa thuận với Kuwait chấm dứt tranh chấp về khu vực trung lập.
Hai thành viên OPEC này đã dừng sản xuất trong hơn 5 năm trước tại mỏ Khafji và Wafra, một mỏ liên doanh khác. Sản lượng cũng đang khôi phục tại Wafra. Sản lượng của cả hai mỏ trước khi đóng cửa là 500.000 thùng/ngày hay khoảng 0,5% nguồn cung dầu của thế giới.
Amin Nasser, chủ tịch và giám đốc điều hành của Saudi Aramco cho biết “với việc ký kết hiệp ước mới, cả hai bên đã đạt được sự đồng thuận hiện nay rằng bây giờ là thời điểm thích hợp cho việc khôi phục sản xuất tại khu vực này”. Ông cũng tham dự lễ kỷ niệm, cùng với Bộ trưởng Dầu mỏ Kuwait Khaled al-Fadhel.
Mỏ Khafji được điều hành bởi AGOC, một công ty con của Aramco, và công ty Gulf Oil của Kuwait.
Bộ trưởng Saudi Arabia và Kuwait cho biết việc khôi phục sản xuất dầu từ khu trung lập sẽ không ảnh hưởng tới cam kết của họ theo thỏa thuận hạn chế nguồn cung giữa OPEC và các nhà sản xuất đồng minh.
 Sản lượng dầu tại khu vực trung lập được phân chia cân bằng giữa Saudi Arabia và Kuwait. Khu vực này là đối tượng của các hiệp ước có từ thập niên 20 của thế kỷ trước liên quan đến biên giới chung của họ.
Nguồn: VITIC/Reuters
Trích: http://vinanet.vn

Chuyên gia dự báo gì về giá dầu trong 2020?

Chuyên gia dự báo gì về giá dầu trong 2020?

 Các nhà dự báo cho rằng giá dầu Brent - giá tham chiếu của thị trường dầu lửa toàn cầu - sẽ bình quân trong khoảng 59-70 USD/thùng trong 2020...
Dự báo giá dầu 2020 mà các ngân hàng và công ty tư vấn năng lượng đưa ra là khá đa dạng, nhưng nghiêng về khả năng giá dầu giảm - hãng tin CNBC cho hay.
 Các nhà dự báo cho rằng giá dầu Brent - giá tham chiếu của thị trường dầu lửa toàn cầu - sẽ bình quân trong khoảng 59-70 USD/thùng trong 2020. Các dự báo này dựa trên đánh giá khác nhau về tình hình nguồn cung, nhu cầu tiêu thụ dầu, cũng như việc thỏa thuận cắt giảm sản lượng mới nhất của liên minh OPEC+ sẽ được các nước thành viên thực hiện nghiêm túc tới mức nào.
 Phần lớn các chuyên gia trao đổi với CNBC tỏ ra bi quan về triển vọng giá dầu năm tới, cho rằng giá bình quân của dầu Brent trong 2020 khó vượt xa mức bình quân 63 USD/thùng trong tháng 11 vừa qua.
Trong một báo cáo công bố tháng này, Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) dự báo "giá dầu Brent giao ngay sẽ bình quân 61 USD/thùng trong 2020, giảm từ mức bình quân 64 USD/thùng trong 2019". Báo cáo này cũng cho rằng giá bình quân của dầu WTI sẽ thấp hơn khoảng 5,5 USD/thùng so với giá dầu Brent trong 2020.
 "EIA dự báo giá dầu thô bình quân trong 2020 sẽ giảm so với 2019, dựa trên dự báo cho rằng lượng dầu tồn kho trên toàn cầu sẽ tăng, đặc biệt trong nửa đầu năm", báo cáo viết.
 Các nước sản xuất dầu lớn đang có nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn nguy cơ tụt dốc của giá năng lượng này. Đầu tháng 12, liên minh giữa Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu lửa (OPEC) và một số nước ngoài khối, gồm Nga, tức OPEC+ đã nhất trí giảm sản lượng thêm 500.000 thùng/ngày, từ mức giảm 1,2 triệu thùng/ngày hiện nay. Ngoài ra, Saudi Arabia tự nguyện giảm sản lượng thêm 400.000 thùng/ngày nữa, nâng tổng mức giảm sản lượng của liên minh trong quý 1/2020 lên 2,1 triệu thùng/ngày nhằm hỗ trợ giá dầu.
 Tuy nhiên, giới phân tích nói rằng nhiều nước trong OPEC+ như Nigeria hay Iraq thời gian qua không hề tuân thủ nghiêm túc thỏa thuận cắt giảm sản lượng và tình trạng này có thể tiếp diễn trong năm tới, khiến mục tiêu của liên minh khó trở thành hiện thực.
 Ngân hàng Nhật Bản MUFG nhận thấy "những dấu hiệu về việc thị trường dầu sẽ dư cung khoảng 0,3 triệu thùng/ngày trong năm tới", đồng thời cho biết "dự báo giá dầu của chúng tôi sẽ ở mức 59 USD/thùng đối với dầu Brent và 55 USD/thùng đối với dầu WTI trong 2020".
 Viện Tài chính Quốc tế (IFF) ở Washington không tin giá dầu sẽ tăng trong năm đầu tiên của thập kỷ tới, cho rằng việc OPEC+ giảm thêm sản lượng "có thể không đủ để trung hòa sự dư thừa nguồn cung được dự báo cho 2020".
Một báo cáo ra tháng 12 của IFF cho rằng sản lượng dầu ở mức cao của Mỹ, Canada và Brazil, cộng thêm tình trạng không tuân thủ nghiêm túc thỏa thuận hạn chế sản lượng của nhiều nước OPEC+, và nhu cầu tiêu thụ dầu trên thế giới còn yếu "có thể khiến lượng dầu tồn kho toàn cầu tăng thêm 1,1 triệu thùng/ngày trong 2020".
Theo báo cáo này, "kết quả là, chúng tôi cho rằng giá bình quân của dầu Brent sẽ giảm còn 60 USD/thùng trong 2020 so với mức bình quân 64 USD/thùng trong 2019".
Trái với quan điểm bi quan của các tổ chức dự báo kể trên, một số nhà dự báo như BofA Global Research và JPMorgan Chase dự báo giá dầu bình quân trong 2020 cao hơn mức của 2019.
BofA thừa nhận rằng nhiều nước OPEC+ có thể không tuân thủ nghiêm túc thỏa thuận trong 2020, nhưng nếu các nước cắt giảm sản lượng đúng con số được phân bổ, cộng thêm vào những diễn biến kinh tế tích cực, chẳng hạn ngành sản xuất toàn cầu khởi sắc và thương chiến Mỹ-Trung tiếp tục xuống thang, thì giá dầu Brent có thể vượt 70 USD/thùng.
 Về phần mình, JPMorgan nâng dự báo giá dầu Brent trong 2020 lên 64,5 USD/thùng, từ mức dự báo trước đó là 59 USD/thùng.
Cuộc họp tiếp theo của OPEC+ sẽ diễn ra vào tháng 3/2020, và quyết định về sản lượng của khối trong lần họp này sẽ tùy thuộc vào việc các nước thành viên sẽ tuân thủ thỏa thuận như thế nào trong quý 1.
 Nhưng cho dù giá dầu Brent có đạt bình quân 70 USD/thùng trong 2019 thì mức giá đó cũng không đủ để cân bằng ngân sách của Saudi Arabia, thủ lĩnh không chính thức của OPEC. Thâm hụt ngân sách của nước này được dự báo lên tới 7% trong 2020. Giới phân tích nói rằng Riyadh cần giá dầu trong khoảng 77-78 USD/thùng mới có thể cân bằng được ngân sách.
Nguồn: An Huy/Vneconomy
Trích: http://vinanet.vn

Hỗ trợ trực tuyến

4386441
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tổng
3285
4123
7408
2330825
86387
4386441

Your IP: 18.118.140.78
Server Time: 2024-11-25 19:51:18

SUPPORT ONLINE

Ông Giang Tử - 0913.329.033
Bà Nga - 0903.228.574

 

 

We have 75 guests and no members online