Trên thị trường năng lượng, giá 2 loại dầu chủ chốt biến động trái chiều giữa bối cảnh nhà đầu tư lo ngại về sự gia tăng căng thẳng trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc.
Kết thúc phiên, dầu Brent giảm 14 US cent (0,2%) xuống 63,92 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 13 US cent (0,2%) lên 58,24 USD.
Ngày 28/11, Văn phòng các vấn đề Hong Kong và Macao của Quốc vụ viện Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án mạnh mẽ việc Mỹ ký ban hành cái gọi là “Đạo luật Dân chủ và Nhân quyền Hong Kong 2019”.
Hiện nay, các nhà đầu tư đang lo ngại động thái trên có thể trì hoãn hơn nữa một thỏa thuận giải quyết tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, vốn tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu dầu thô.
Trong khi đó, theo báo cáo công bố gần đây của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ, dự trữ dầu thô của nước này trong tuần trước đã tăng 1,6 triệu thùng, với sản lượng tăng lên mức cao kỷ lục 12,9 triệu thùng/ngày.
Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng đang hướng sự chú ý tới cuộc họp diễn ra vào tuần tới của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, trong đó có Nga, được biết đến với cái tên OPEC+.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS dự kiến OPEC+ sẽ gia hạn thỏa thuận cắt giảm sản lượng, dự kiến hết hạn vào cuối tháng 3/2020, thêm ba đến sáu tháng nữa.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm khi chứng khoán Mỹ tăng điểm. Vàng giao ngay tăng 0,1% lên 1.455,37 USD/ounce; trong khi vàng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,1% lên 1.454,9 USD/ounce.
Trên thị trường chứng khoán Mỹ, chỉ số Dow Jones, S&P 500 và Nasdaq Composite đều tăng điểm trong phiên này, nhờ số liệu kinh tế tích cực hơn dự kiến.
Theo Bộ Thương mại Mỹ, GDP của nước này trong quý III/2019 tăng trưởng 2,1%, cao hơn so với mức ước tính trước đó là 1,9%. Khi các chỉ số chứng khoán tăng, sức hấp dẫn của các tài sản an toàn như vàng sẽ giảm.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao tháng Ba giảm 13,3 xu, hay 0,77%, xuống 17,055 USD/ounce, giá bạch kim giao tháng Hai giảm 16,3 USD, hay 1,79%, xuống 895,4 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm khi quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc xấu đi, làm gia tăng nghi ngờ về triển vọng giải quyết tranh chấp thương mại kéo dài giữa 2 nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Giá đồng trên sàn London giảm 0,9% xuống 5.892 USD/tấn, sau khi giá đồng tăng lên mức cao nhất 3 tuần (5.968 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng từ mức giảm 2 phiên liên tiếp, sau khi Bắc Kinh đưa ra 1 loạt các biện pháp kích thích nhằm thúc đẩy nền kinh tế chậm lại, làm gia tăng các dự án xây dựng.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Đại Liên tăng 0,7% lên 650 CNY/tấn.
Đồng thời, trên sàn Thượng Hải, giá thép cây kỳ hạn tháng 1/2020 tăng 0,4% lên 3.618 CNY/tấn. Giá thép cuộn cán nóng tăng 0,8% lên 3.555 CNY/tấn. Giá thép không gỉ kỳ hạn tháng 2/2020 giảm 1,1% xuống 14.110 CNY/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê robusta trên sàn London (kỳ hạn tháng 3/2020) tăng 5 USD tương đương 0,3% lên 1.406 USD/tấn.
Tại châu Á, giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng do vụ thu hoạch trong năm nay chậm hơn khi cây trồng bị ảnh hưởng bởi hạn hán hồi tháng 3/2019, trong khi giao dịch tại Indonesia trầm lắng do thiếu nguồn cung.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) được chào giá cộng 90-100 USD/tấn so với kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London, giảm so với mức cộng 120-130 USD/tấn cách đây 1 tuần. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 33.000 đồng (1,42 USD)/kg, giảm so với 35.000 đồng/kg hồi tuần trước.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 200 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn London và giảm so với mức cộng 190-200 USD/tấn cách đây 1 tuần.
Giá đường tăng trong bối cảnh giao dịch trầm lắng khi thị trường Mỹ nghỉ lễ Tạ ơn, song các nhà sản xuất đẩy mạnh bán ra đã hạn chế đà tăng. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn London tăng 1,4 USD tương đương 0,4% lên 343 USD/tấn.
Giá đậu tương tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng do hoạt động đẩy mạnh bán ra và thời tiết thuận lợi hỗ trợ năng suất cây trồng tại Nam Mỹ. Trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 0,3% xuống 8,82 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 20/9/2019. Giá ngô kỳ hạn tháng 3/2020 giảm 1,3% xuống 3,73-1/4 USD/bushel. Giá lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 0,9% xuống 5,26-3/4 USD/bushel.
Giá dầu cọ tại Malaysia giảm do các thương nhân bán ra chốt lời sau khi giá tăng trong phiên trước đó. Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 1/2020 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,8% xuống 2.665 ringgit (639,09 USD)/tấn, sau khi tăng 0,4% trong phiên trước đó. Tính chung cả tuần giá dầu cọ giảm 3% sau khi tăng gần 7% trong tuần trước đó.
Giá cao su tại Tokyo giảm theo xu hướng giá cao su kỳ hạn tại Thượng Hải suy giảm.
Trên sàn TOCOM, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2020 giảm 0,2 JPY (0,0018 USD) xuống 188,3 JPY/kg.
Trong khi đó, trên sàn Thượng Hải, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2020 giảm 95 CNY (13,5 USD) xuống 12.475 CNY/tấn. Giá cao su TSR20 giảm 25 CNY xuống 10.700 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
58,24
|
+0,13
|
+0,2%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
63,92
|
-0,14
|
-0,2%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
40.360,00
|
+310,00
|
+0,77%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,48
|
-0,02
|
-0,84%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
168,42
|
+0,50
|
+0,30%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
195,70
|
+1,05
|
+0,54%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
590,00
|
+3,75
|
+0,64%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
56.650,00
|
+370,00
|
+0,66%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.463,00
|
+2,20
|
+0,15%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
5.119,00
|
0,00
|
0,00%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,04
|
-0,02
|
-0,12%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
59,90
|
+0,10
|
+0,17%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
893,45
|
+0,52
|
+0,06%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.835,20
|
-2,65
|
-0,14%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
267,55
|
-2,05
|
-0,76%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
5.892,00
|
-53,00
|
-0,89%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
1.752,00
|
-12,00
|
-0,68%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.278,00
|
-19,00
|
-0,83%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
16.420,00
|
+20,00
|
+0,12%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
373,25
|
-5,00
|
-1,32%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
526,75
|
-4,25
|
-0,80%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
316,50
|
-5,75
|
-1,78%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,39
|
+0,15
|
+1,23%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
882,00
|
-2,25
|
-0,25%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
296,20
|
-0,90
|
-0,30%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
30,50
|
+0,10
|
+0,33%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
458,90
|
+1,00
|
+0,22%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.597,00
|
-59,00
|
-2,22%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
118,45
|
+1,60
|
+1,37%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
12,79
|
+0,01
|
+0,08%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
99,80
|
+0,05
|
+0,05%
|
Bông
|
US cent/lb
|
65,81
|
-0,14
|
-0,21%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
416,10
|
+3,20
|
+0,77%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
186,50
|
-1,80
|
-0,96%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,37
|
-0,05
|
-3,45%
|
Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg
Trích: http://vinanet.vn