Warning
  • Sorry No Product Found!!.

Nguy cơ thiếu điện vì nhiều dự án chậm tiến độ

 

Nguy cơ thiếu điện vì nhiều dự án chậm tiến độ

Theo Bộ Công Thương, hiện tổng công suất nguồn điện của Việt Nam đã gần như không còn dự phòng, trong khi đó nhiều dự án theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh đều chậm tiến độ dẫn đến nguy cơ thiếu điện trong tương lai rất gần.
Báo cáo mới nhất về tình hình thực hiện các dự án điện trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh cho thấy, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, giai đoạn 2016 - 2030 có tổng cộng 116 dự án nguồn điện đưa vào vận hành (chưa bao gồm các nguồn năng lượng tái tạo chưa ghi rõ tên hoặc chưa lập dự án), trong đó có 43 dự án thủy điện, 57 dự án nhiệt điện, 11 dự án năng lượng tái tạo, 3 dự án thủy điện tích năng và 2 dự án điện cá nhân.
Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) cho hay, trên thực tế, tổng công suất các nguồn điện có khả năng đưa vào vận hành cả giai đoạn 2016-2030 dự kiến khoảng 80.500 MW, thấp hơn so với Quy hoạch VII điều chỉnh là hơn 15.200 MW, trong đó chủ yếu thiếu hụt trong các năm từ 2018-2022. Nhiều dự án giai đoạn này bị chậm sang giai đoạn 2026-2030 và hầu hết là dự án nhiệt điện tại miền Nam.
Nếu như năm 2015-2016, hệ thống điện dự phòng đạt khoảng 20-30% thì đến 2018-2019 hầu như không còn dự phòng và sang giai đoạn 2021-2025 xảy ra tình trạng thiếu hụt nguồn cấp điện, nhất là khu vực miền Nam.
Nguyên nhân chính dẫn tới việc thiếu điện tại miền Nam tăng cao hơn so với tính toán trước đây là do tiến độ các dự án khí Lô B, Cá Voi Xanh đều bị chậm so với kế hoạch từ 9 tháng đến 1 năm; các dự án Nhiệt điện Kiên Giang 1&2 không đáp ứng tiến độ hoàn thành trong giai đoạn 2021-2025, thậm chí lùi sau năm 2030; Dự án Ô Môn III lùi tiến độ đến năm 2025. Trường hợp dự án điện Long Phú 1 không đáp ứng tiến độ hoàn thành năm 2023, tình trạng thiếu điện tại miền Nam trong các năm 2024-2025 sẽ trầm trọng hơn.
Trong tổng công suất nguồn giai đoạn 2016-2020 (21.651 MW) thì Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đầu tư là 7.185 MW (chiếm 33,2%) với 23 dự án các loại. Trong số đó có 13 dự án chậm hoặc lùi tiến độ.
Theo Quy hoạch, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam được giao làm chủ đầu tư 8 dự án nguồn với tổng công suất 11.400 MW. Đến nay cả 8 dự án đều gặp khó khăn, vướng mắc và khó hoàn thành theo tiến độ.
Trong khi đó, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam (TKV) thực hiện 4 dự án với tổng công suất 2.950 MW. Hiện cả 4 dự án đều chậm tiến độ từ 2 năm trở lên.
Các dự án BOT có 15 dự án, trong đó giai đoạn 2016-2020 là 1 dự án, số còn lại thực hiện trong 2021-2030. Theo đánh giá chỉ có 3 dự án có khả năng đạt tiến độ, còn 12 dự án chậm tiến độ hoặc chưa thể xác định tiến độ vì vướng mắc trong đàm phán.
Các dự án IPP có 8 dự án với công suất đặt là 7.390 MW nhưng đến nay mới có 1 dự án hoàn thành đúng tiến độ, 2 dự án có khả năng đạt tiến độ. Các dự án còn lại chưa xác định được thời gian hoàn thành.
Trong quy hoạch có 5 dự án nguồn điện (trong đó có 1 dự án loại khỏi quy hoạch) đều thuộc giai đoạn 2021-2030 chưa có chủ đầu tư.
Về các dự án năng lượng tái tạo, đến nay đều tập trung ở nơi có phụ tải thấp, hạ tầng lưới điện 110 -500kV tại các khu vực này chưa đáp ứng được yêu cầu truyền tải.
Cùng với các dự án nguồn điện bị chậm tiến độ, các dự án đường dây 220-500 KV cũng đang gặp khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, đền bù và các quy định khác. Theo tính toán, với các dự án nguồn điện đưa vào vận hành năm 2019-2020, hệ thống điện có thể đáp ứng được nhu cầu điện toàn quốc. Tuy nhiên cần huy động thêm nguồn nhiệt điện chạy dầu với sản lượng tương ứng 1,7 tỷ KWh vào năm 2019 và 5,2 tỷ kWh vào năm 2020. Trong trường hợp các tổ máy phát điện không đáp ứng yêu cầu về độ tin cậy vận hành hoặc không đảm bảo đủ nhiên liệu (than, khí) cho phát điện, Việt Nam có thể đối mặt nguy cơ thiếu điện vào năm 2020.
 
Các năm từ 2021-2025, mặc dù sẽ huy động tối đa các nguồn điện chạy dầu nhưng hệ thống điện nhiều khả năng không đáp ứng nhu cầu phụ tải và xảy ra tình trạng thiếu điện tại miền Nam với mức thiếu hụt tăng từ 3,7 tỷ kWh (năm 2021) lên gần 10 tỷ kWh (năm 2022), mức thiếu hụt cao nhất vào năm 2023 khoảng 12 tỷ kWh, sau đó giảm dần xuống 7 tỷ năm 2024 và 3,5 tỷ kWh năm 2025.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cho biết, để đảm bảo cung cấp điện, Bộ Công Thương cũng đã chủ động đẩy mạnh các giải pháp nhằm đảm bảo cung ứng điện cho giai đoạn sắp tới; Trong đó, khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời áp mái, đặc biệt khu vực phía Nam để giảm áp lực nguồn cung; tăng cường tiết kiệm điện, triển khai mạnh mẽ các chương trình kiểm toán năng lượng đặc biệt là các tỉnh phía Nam…đồng thời phối hợp với các bộ, ngành liên quan tìm cách tháo gỡ khó khăn về cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy các dự án đầu tư xây dựng, đáp ứng yêu cầu về điện cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trích nguồn: cand.com.vn

Người nổi tiếng quảng cáo hàng giả có thể bị phạt đến 100 triệu đồng

 

Người nổi tiếng quảng cáo hàng giả có thể bị phạt đến 100 triệu đồng

Vinanet - Hiện nay, nhiều người lựa chọn thuê người nổi tiếng đến quảng cáo cho sản phẩm, dịch vụ của mình. Vậy nếu sản phẩm, dịch vụ đó là hàng giả thì người nổi tiếng sẽ bị phạt thế nào?
Những điều người quảng cáo không được làm
Quảng cáo là việc giới thiệu sản phẩm của mình đến với người sử dụng thông qua nhiều phương thức. Một trong số đó là sử dụng bên thứ ba: người nổi tiếng, các phương tiện truyền thông, truyền hình... để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng một cách rộng rãi.
(Điều 2 Luật Quảng cáo 2012)
Trong đó, Điều 8 Luật Quảng cáo 2012 quy định một số hành vi bị cấm trong quảng cáo như:
- Không quảng cáo các sản phẩm bị cấm;
- Không quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục, mỹ quan đô thị, trật tự an toàn giao thông, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an toàn hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em;
- Không quảng cáo không đúng hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về: Số lượng, giá cả, công dụng, kiểu dáng, khả năng kinh doanh, bao bì, nhãn hiệu, xuất xứ, chủng loại…
- Không sử dụng các từ ngữ “nhất, duy nhất, tốt nhất, số một” hoặc các từ ngữ tương tự theo quy định của pháp luật;
Quảng cáo hàng giả có thể bị phạt tù đến 05 năm
Một hình thức rất được ưa chuộng hiện nay là thông qua sức ảnh hưởng của người nổi tiếng để thực hiện quảng cáo sản phẩm, hàng hóa.
Theo đó, Điều 13 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 quy định người nổi tiếng khi quảng cáo phải chịu trách nhiệm liên đới về việc cung cấp thông tin đến người tiêu dùng. Trong đó, phải bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp.
Như vậy, nếu hàng hóa mà người nổi tiếng quảng cáo bị xác định là hàng giả thì người này có thể bị:
Xử phạt hành chính: Phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 70 triệu đồng nếu quảng cáo sai sự thật về hàng hóa, dịch vụ. (khoản 5 Điều 51 Nghị định 158/2013/NĐ-CP).
Truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Về Tội quảng cáo gian dối được quy định tại Điều 197 Bộ luật Hình sự 2015 do có hành vi quảng cáo không đúng sự thật về hàng hóa, dịch vụ. Theo đó, người này sẽ bị phạt cao nhất đến 05 năm tù giam hoặc phạt tiền cao nhất đến 100 triệu đồng nếu:
 
+ Đã bị xử lý vi phạm hành chính;
+ Bị kết án về tội này mà chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội;
- Dưới vai trò đồng phạm về các Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 khi biết là hàng giả mà vẫn cố tình bán.
Tuy nhiên, nếu chứng minh được bản thân đã thực hiện đầy đủ các biện pháp kiểm tra tính chính xác của hàng hóa và không biết hàng hóa là hàng giả thì không phải chịu trách nhiệm.
Trích nguồn: http://vinanet.vn

Thông tư của Bộ Tài chính về xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế

 

Thông tư của Bộ Tài chính về xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế

Người nộp thuế có nghĩa vụ phải nộp thuế trong thời hạn quy định. Quá thời hạn nộp thuế 90 ngày sẽ bị xử lý theo các mức phạt với hành vi trốn thuế, gian lận thuế dưới đây.
Xử phạt vi phạm hành chính
Theo Điều 13 Thông tư 166/2013/TT-BTC người có hành vi trốn thuế, gian lận thuế bị xử phạt theo số lần tính trên số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận như sau:
Mức 1: Phạt tiền 01 lần tính trên số thuế trốn, số thuế gian lận
Theo khoản 1 Điều 13 Thông tư 166/2013/TT-BTC mức 1 sẽ áp dụng với 02 trường hợp sau:
Trường hợp 1: Người nộp thuế vi phạm lần đầu (trừ các trường hợp bị xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế);
Trường hợp 2: Người nộp thuế vi phạm lần thứ hai mà có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trở lên
Người nộp thuế thuộc 02 trường hợp trên khi có một trong các hành vi vi phạm sau thì bị xử phạt, cụ thể:
1. Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định hoặc kể từ ngày hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế (trừ 02 trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 9 và khoản 9 Điều 13 Thông tư 166/2013/TT-BTC).
2. Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp; sử dụng bất hợp pháp hóa đơn, chứng từ; hóa đơn không có giá trị sử dụng để kê khai thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm.
3. Lập thủ tục, hồ sơ hủy vật tư, hàng hóa hoặc giảm số lượng, giá trị vật tư, hàng hóa không đúng thực tế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm.
4. Lập hóa đơn sai về số lượng, giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra làm căn cứ kê khai nộp thuế thấp hơn thực tế.
5. Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp; không kê khai, kê khai sai, không trung thực làm giảm số thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn, được miễn, giảm.
6. Không xuất hóa đơn khi bán hàng hoá, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hoá, dịch vụ đã bán và bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế.
7. Sử dụng hàng hóa được miễn thuế, xét miễn thuế (bao gồm cả không chịu thuế) không đúng với mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng, khai thuế với cơ quan thuế.
8. Sửa chữa, tẩy xoá chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm.
9. Hủy bỏ chứng từ kế toán, sổ kế toán làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm.
10. Sử dụng hóa đơn, chứng từ, tài liệu không hợp pháp trong các trường hợp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn; khai sai căn cứ tính thuế phát sinh số thuế trốn, số thuế gian lận.
11. Người nộp thuế đang trong thời gian xin tạm ngừng kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh.
12. Hàng hóa vận chuyển trên đường không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp.
Mức 2: Phạt tiền 1,5 lần tính trên số thuế trốn
Người nộp thuế khi có 01 trong 12 hành vi trốn thuế, gian lận thuế trên trong các trường hợp:
- Vi phạm lần đầu, có tình tiết tăng nặng hoặc
- Vi phạm lần thứ hai, có một tình tiết giảm nhẹ.
Mức 3: Phạt tiền 02 lần tính trên số thuế trốn
Người nộp thuế khi có 01 trong 12 hành vi trốn thuế, gian lận thuế trên trong các trường hợp:
- Vi phạm lần thứ hai mà không có tình tiết giảm nhẹ hoặc
- Vi phạm lần thứ ba và có một tình tiết giảm nhẹ.
Mức 4: Phạt tiền 2,5 lần tính trên số thuế trốn
Người nộp thuế khi có 01 trong 12 hành vi trốn thuế, gian lận thuế trên trong các trường hợp:
- Vi phạm lần thứ hai mà có một tình tiết tăng nặng hoặc
- Vi phạm lần thứ ba mà không có tình tiết giảm nhẹ.
Mức 5: Phạt tiền 03 lần tính trên số tiền thuế trốn
Người nộp thuế khi có 01 trong 12 hành vi trốn thuế, gian lận thuế trên trong các trường hợp:
- Vi phạm lần thứ hai mà có từ hai tình tiết tăng nặng trở lên hoặc
- Vi phạm lần thứ ba có tình tiết tăng nặng hoặc
- Vi phạm từ lần thứ tư trở đi.
Lưu ý:
- Ngoài các mức phạt trên, người có hành vi trốn thuế, gian lận thuế sẽ phải nộp đủ số tiền thuế trốn, gian lận vào ngân sách Nhà nước.
Có thể không xử lý hành vi trốn thuế, gian lận thuế
- Cùng là hành vi giống hành vi trốn thuế, gian lận thuế nhưng có thể xử lý với mức nhẹ hơn (không bị coi là hành vi trốn thuế, gian lận thuế), cụ thể:
Theo khoản 7 Điều 13 Thông tư 166/2013/TT-BTC các hành vi vi phạm quy định tại điểm b, c, d, đ, e, g, h, i, k khoản 1 Điều 13 (hành vi 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 tại mức 1) bị phát hiện trong thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế hoặc bị phát hiện sau thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, nhưng không làm giảm số thuế phải nộp hoặc chưa được hoàn, không làm tăng số thuế miễn, giảm và không thuộc trường hợp bị xử phạt đối với hành vi trốn thuế thì:
+ Bị xử phạt về hành vi vi phạm về thủ tục thuế với mức phạt là 2,1 triệu đồng (không quá 03 triệu đồng nếu có tình tiết tăng nặng) hoặc
+ Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán.
- Trường hợp người nộp thuế đang thuộc diện được miễn thuế, được hoàn thuế theo quy định của pháp luật, kê khai không đúng căn cứ xác định số thuế được miễn, số thuế được hoàn nhưng không làm thiệt hại đến số thuế của ngân sách nhà nước thì không bị xử phạt đối với hành vi trốn thuế mà xử phạt về hành vi vi phạm về thủ tục thuế với mức phạt cao nhất không quá 03 triệu đồng.
 
- Trường hợp, người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế nhưng đã tự giác nộp đầy đủ số tiền thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước trước thời điểm cơ quan thuế lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế thì:
+ Bị xử phạt về hành vi chậm nộp hồ sơ khai thuế với mức phạt là 3,5 triệu đồng (thấp nhất là 02 triệu đồng khi có tình tiết giảm nhẹ - cao nhất không quá 04 triệu đồng nếu có tình tiết tăng nặng).
- Trường hợp, người nộp thuế đã nộp hồ sơ khai thuế nhưng khai sai, gian lận thuế dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp, gian lận, trốn thuế thì ngoài việc bị xử phạt về thủ tục thuế còn bị xử phạt về khai thiếu thuế hoặc trốn thuế.
- Trường hợp người nộp thuế nộp thuế theo phương pháp kê khai đang trong thời hạn hưởng ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) bị phát hiện có hành vi vi phạm như khai sai làm tăng khống chi phí để tăng số lỗ, để giảm lãi; giảm chi phí để tăng lãi và xác định không đúng các điều kiện để được hưởng miễn thuế TNDN thì:
+ Nếu vi phạm được kiểm tra phát hiện ngay trong thời gian đang được ưu đãi miễn thuế TNDN thì không xử phạt về hành vi trốn thuế mà thực hiện xử phạt vi phạm về thủ tục thuế hoặc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán;
+ Nếu vi phạm chưa được kiểm tra phát hiện mà cá nhân, tổ chức không tự điều chỉnh hậu quả làm giảm số thuế TNDN của năm tiếp sau khi hết thời hạn được miễn thuế TNDN thì bị xử phạt về hành vi trốn thuế.
Trích nguồn: http://vinanet.vn

 

EVN sẽ đưa vào vận hành hơn 30 nhà máy điện mặt trời trong tháng 6

 

 EVN sẽ đưa vào vận hành hơn 30 nhà máy điện mặt trời trong tháng 6

Theo báo cáo từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong tháng 6 này, Tập đoàn dự kiến sẽ đưa tiếp hơn 30 nhà máy điện mặt trời vào vận hành, nâng tổng số lên khoảng hơn 80 nhà máy.
Hiện nay, Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia (A0) đã chuẩn bị các phương án thi công đấu nối và thử nghiệm các nhà máy điện mặt trời; chuẩn bị nguồn dự phòng riêng cho miền Trung và miền Nam tùy theo khả năng của các dự án năng lượng tái tạo. Đồng thời A0 cũng có chế độ vận hành phù hợp các đường dây 500 kV, giám sát chất lượng điện năng... đảm bảo vận hành an toàn hệ thống điện.
 
Tính đến ngày 31/5/2019, cả nước đã có 50 nhà máy điện mặt trời vào vận hành với tổng công suất lắp đặt là 2.481,4 MW, sản lượng đã phát trong tháng 5 là 185,33 triệu kWh; 7 nhà máy điện gió đã được đưa vào vận hành với tổng công suất lắp đặt là 331 MW và các nhà máy điện gió đã phát trong tháng 5 là 14,5 triệu kWh.
 
Với nhận định tháng 6 là tháng cao điểm mùa khô và nắng nóng, EVN dự kiến sản lượng điện bình quân toàn hệ thống trong tháng 6/2019 dự kiến ở mức 701 triệu kWh/ngày, công suất phụ tải lớn nhất khoảng 39.040 MW.
 
Mục tiêu vận hành là đảm bảo vận hành an toàn, tin cậy lưới điện truyền tải, đặc biệt là hệ thống 500 kV Bắc - Nam trong điều kiện truyền tải cao cho miền Nam; tiếp tục huy động cao các nguồn nhiệt điện than, tuabin khí, đồng thời khai thác các hồ thủy điện theo nước về, đảm bảo yêu cầu cấp nước cho hạ du cho các địa phương.
 
Các tổ máy nhiệt điện cần chuẩn bị đầy đủ nhiên liệu như than, dầu..., vật tư, thiết bị, nhân lực sẵn sàng đáp ứng yêu cầu huy động của Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia.
Báo cáo của EVN cho hay, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống tháng 5/2019 đạt 21,25 tỷ kWh (trung bình 685,5 triệu kWh/ngày); sản lượng ngày lớn nhất đạt 759,2 triệu kWh (ngày 18/5/2019) và công suất lớn nhất toàn hệ thống là 36.945 MW. Lũy kế 5 tháng sản lượng toàn hệ thống đạt 95,61 tỷ kWh, tăng 10,32% so với cùng kỳ năm trước.
 
Sản lượng điện thương phẩm toàn EVN tháng 5/2019 ước đạt 17,52 tỷ kWh và lũy kế 5 tháng năm 2019 ước đạt 81,66 tỷ kWh, tăng 9,77% so cùng kỳ năm trước; trong đó, sản lượng điện thương phẩm nội địa tăng 9,63%.
 
 Trong tháng 5/2019, trào lưu truyền tải vẫn theo hướng từ miền Bắc và miền Trung vào miền Nam với sản lượng điện truyền tải ước đạt 17,87 tỷ kWh. Công suất truyền tải cao nhất trên trên các đường dây 500 kV Bắc - Trung là 2.060 MW và Trung - Nam là 3.330 MW. Sản lượng điện truyền tải vào miền Nam là 34,4 triệu kWh/ngày (tương đương 12% nhu cầu điện miền Nam)...
Trích nguồn: Đức Dũng (TTXVN)

 

 

Vì sao Mỹ tăng nhập khẩu dầu từ Nga chứ không phải vùng Vịnh?

 

Vì sao Mỹ tăng nhập khẩu dầu từ Nga chứ không phải vùng Vịnh?

 Mỹ đã tăng lượng dầu nhập khẩu từ Nga chứ không phải từ các nước đồng minh truyền thống ở vùng Vịnh, mặc dù ngành năng lượng Nga đang phải chịu các lệnh trừng phạt cứng rắn từ Washington.
Theo nhà kinh tế quốc tế, Tiến sĩ Mamdouh Salamed, các nhà máy lọc dầu của Mỹ đang tăng cường nhập khẩu dầu từ Nga vì không còn nguồn cung cấp dầu mỏ từ Venezuela. Mỹ đã mua tổng cộng 5 triệu thùng dầu thô của Nga trong tháng 5/2019 và sẽ tiếp tục mua nhiều hơn nữa.
Chuyên gia James Williams, Chủ tịch công ty tư vấn năng lượng WTRG Economics, cũng cho rằng việc Mỹ tăng lượng dầu thô nhập khẩu từ Nga là do nhu cầu lớn từ các nhà máy lọc dầu của Mỹ nhằm thay thế lượng dầu nhập khẩu từ Venezuela, trong bối cảnh nước này đang phải chịu các lệnh trừng phạt hà khắc của Mỹ từ tháng 1/2019.
Tuy nhiên, liên quan đến lý do vì sao Mỹ lại không tăng nhập khẩu dầu từ các nước đồng minh truyền thống ở vùng Vịnh, nhà kinh tế Salamed đưa ra ba lý do. Thứ nhất, Saudi Arabia đã giảm sản lượng dầu của mình vượt quá mức cam kết theo thỏa thuận cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC).
OPEC và các nhà sản xuất ngoài khối, trong đó có Nga (OPEC+), đã thống nhất cắt giảm tổng cộng 1,2 triệu thùng/ngày trong 6 tháng từ tháng 1/2019 để đảm bảo giá dầu thô tăng lên 80 USD/thùng, mức mà Saudi Arabia cần để cân bằng ngân sách.
Lý do thứ hai là khu vực châu Á-Thái Bình Dương vẫn là điểm đến chính của dầu thô Saudi Arabia, chiếm gần 75% tổng lượng dầu xuất khẩu của quốc gia Trung Đông này. Lý do cuối cùng là các nước vùng Vịnh xuất khẩu sang Mỹ để gia tăng dầu thô dự trữ của Mỹ, điều sẽ cho phép Mỹ sử dụng để giảm giá dầu.
Theo Sputnik, ngay sau khi áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với tập đoàn dầu khí nhà nước PDVSA của Venezuela, giới kinh doanh dầu mỏ Mỹ bắt đầu tính toán thiệt hại. Mặc dù Mỹ có sản lượng dầu với hàm lượng lưu huỳnh thấp rất dồi dào nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu thô.
Một số nhà máy lọc dầu của Mỹ - đặc biệt là ở Bờ Đông và Vịnh Mexico - tập trung vào tinh chế dầu thô nặng, chủ yếu từ Venezuela. Theo số liệu của công ty đầu tư Caracas Capital Markets, trong tuần cuối tháng 2/2019, hai tàu chở dầu từ Venezuela đến Mỹ chỉ giao được 766.000 thùng dầu. Trong khi các công ty Nga đã có 9 chuyến tàu với hơn 3 triệu thùng dầu và sản phẩm dầu mỏ đến Mỹ trong tuần đó.
Đến đầu tháng Tư, lượng dầu xuất khẩu của Venezuela sang Mỹ giảm 4,5 lần so với cùng kỳ năm ngoái, xuống 139.000 thùng/ngày. Sau khi lệnh cấm vận của Mỹ bắt đầu có hiệu lực ngày 28/4, hoạt động giao hàng đã chấm dứt hoàn toàn.
Hạn chế này đã gây ra sự thiếu hụt tạm thời tại thị trường Mỹ, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA). Tất cả những công ty quan trọng trong ngành công nghiệp lọc dầu của Mỹ, như Citgo Oil, Valero Energy và Chevron đều bị ảnh hưởng.
Trong nửa đầu tháng 5/2019, các công ty của Mỹ đã mua 5 triệu thùng dầu Urals - tương đương với lượng dầu xuất khẩu của Nga sang Mỹ kể từ đầu năm. Động thái này bắt nguồn từ sự thiếu hụt nguyên liệu nghiêm trọng do Washington áp dụng lệnh trừng phạt đối với Venezuela. Các chuyên gia cũng dự đoán Washington sẽ tăng lượng dầu nhập khẩu từ Nga lên gấp ba lần trong năm nay.
 
Mặt khác, các nhà máy lọc dầu châu Âu sử dụng các loại dầu nặng cũng khẩn trương tìm kiếm sự thay thế cho nguồn cung truyền thống đã biến mất khỏi thị trường. Họ trở thành nạn nhân ngẫu nhiên của các lệnh trừng phạt mà Mỹ áp đặt chốt lại Iran và Venezuela, do thị trường mất đi gần 800.000 thùng/ngày.
Theo số liệu của Refinitiv Eikon, từ tháng 10/2018 đến tháng 3/2019, Saudi Arabia đã giảm một nửa lượng dầu nặng xuất khẩu sang châu Âu, còn Iraq giảm hơn 40%. Hồi tháng Tư vừa qua, tình trạng không thể tiếp cận nguồn dầu mỏ Iran và Venezuela đã khiến những khách hàng châu Âu thực sự “tranh giành” dầu Urals của Nga.
Hãng tin Reuters dẫn lời một thương nhân trong ngành cho hay, tất cả các nhà máy lọc dầu đang tìm kiếm dầu Urals. Rõ ràng là lượng dầu này sẽ không đủ cho tất cả các khách hàng có nhu cầu.
Trích nguồn: vietnambiz.vn

 

Hỗ trợ trực tuyến

4390379
Hôm nay
Hôm qua
Tuần này
Tuần trước
Tháng này
Tổng
3321
3902
11346
2330825
90325
4390379

Your IP: 3.137.169.14
Server Time: 2024-11-26 13:37:08

SUPPORT ONLINE

Ông Giang Tử - 0913.329.033
Bà Nga - 0903.228.574

 

 

We have 96 guests and no members online